TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

bewusstsein

nhận thức

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Ý thức

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự quan tâm

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

kiến thức

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

ỹ thức

 
Từ điển triết học Kant

sự nhận thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự hiểu biết

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự nhận ra

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quan điểm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tình trạng tỉnh táo

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tình trạng có ý thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
bewußtsein

tri giác

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự nhận .thúc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ý muôn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giác ngộ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tự giác.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
das bewusstsein

Thức

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Tâm

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Anh

bewusstsein

Consciousness

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

Awareness

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
das bewusstsein

Consciousness

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

state of consciousness

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

citta

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

Đức

bewusstsein

Bewusstsein

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Thuật ngữ - Điện Điện Tử - Đức Anh Việt (nnt)
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
das bewusstsein

das Bewusstsein

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

der Bewusstseinszustand

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

citta

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh
Chuyên ngành CN Hóa (nnt)

Bei Verschlucken Mund mit Wasser ausspülen (nur wenn Verunfallter bei Bewusstsein ist)

Khí nuốt phải chất này: Súc miệng bằng nước sạch (chỉ khi nào người bị nạn còn tỉnh)

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

etw. kommt jmdm. zu[m] Bewusstsein

(ai) hiểu được, nhận thức được điều gì

allmählich kam ihm z.u[m] Bewusstsein, dass seine Methode falsch war

dần dần, anh ta hiểu ra rằng phương pháp của mình là sai.

das politische Bewusstsein eines Menschen

ý thức về chính trị của một người.

etw. tritt über die Schwelle des Bewusstseins

điều gỉ vượt quá ngưỡng tri giác.

das Bewusstsein wiederer - langen

đã hồi tỉnh lại.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Bewusstsein /das; -s, -e (PL fachspr., selten)/

sự nhận thức; sự hiểu biết; sự nhận ra (Gewissheit, Einsicht);

etw. kommt jmdm. zu[m] Bewusstsein : (ai) hiểu được, nhận thức được điều gì allmählich kam ihm z.u[m] Bewusstsein, dass seine Methode falsch war : dần dần, anh ta hiểu ra rằng phương pháp của mình là sai.

Bewusstsein /das; -s, -e (PL fachspr., selten)/

nhận thức; quan điểm; ý thức;

das politische Bewusstsein eines Menschen : ý thức về chính trị của một người.

Bewusstsein /das; -s, -e (PL fachspr., selten)/

(Psych ) tri giác (Besinnung);

etw. tritt über die Schwelle des Bewusstseins : điều gỉ vượt quá ngưỡng tri giác.

Bewusstsein /das; -s, -e (PL fachspr., selten)/

tình trạng tỉnh táo; tình trạng có ý thức;

das Bewusstsein wiederer - langen : đã hồi tỉnh lại.

Từ điển triết học Kant

Ỹ thức [Đức: Bewusstsein; Anh: consciousness]

Xem thêm: Thông giác, nhận thức, cáỉ Tôi, “Tôi tư duy”, Đồng nhất, Võng luận, Tri giác, Tâm lý học, Biểu tượng, Tự khởi, Chủ thể, Tổng hợp, Thống nhất,

Trong L, Kant định nghĩa ý thức như “sự hình dung rằng biểu tượng khác nằm trong tôi” tạo thành “điều kiện phổ quát cho mọi nhận thức nói chung” (L, tr. 544). Nó được cho là “đi kèm” với mọi nhận thức, xác định hình thức hay “cái làm thế nào” [có thể có được] của nhận thức (đối lập với chất thể hay nhận thức về “cái gì”). Với quan niệm về một “điêu kiện” vốn còn là một “sự đi kèm” với nhận thức, Kant tỏ ra là người thừa kế của một truyền thống tư tưởng rất phức tạp về địa vị chính xác của ý thức.

Trong De Anima [Vê Linh hồn], Aristoteles nêu ra nhiều vấn đề mà sau này sẽ xuyên suốt nỗ lực muốn định nghĩa ý thức. Ông tra hỏi liệu sự ý thức của việc nhìn có được mang lại cho ta qua thị giác “hay qua giác quan nào đó không phải thị giác” không, và nếu là cái sau, liệu “chúng ta hoặc phải rổi vào một sự quy thoái vô hạn, hoặc chúng ta phải giả định một giác quan có ý thức về chính nó” không (Aristoteles, 1941, 435b, 17). Aristoteles thích lựa chọn sau hon, nhưng vấn đề về địa vị của “sự có ý thức” hay “ý thức”, liên quan đến cái mà nó ý thức về, vẫn là một lý do cần quan tâm. Vấn đề giống vậy nảy sinh với tinh thần vốn “tự nó là có thể suy tưởng được theo cùng những cách thức giống như những đối tượng của nó” (Aristoteles, 1941, 430a, 2). Nếu không, hẳn chúng ta sẽ buộc phải tìm kiếm một hình thức của ý thức có thể chứa đựng cả tinh thần lẫn các đối tượng của nó, nếu thế thì làm thế nào chúng ta có thể trở nên có ý thức về điều này? Nói khác đi, ý thức đi kèm với một tri giác luôn vượt khỏi chính nó để chỉ đến một hình thức có tính thâu gồm [inclusive] hon của ý thức.

Trước thế kỷ XVII, không có một thuật ngữ riêng biệt nào tương ứng với “ý thức”; nó không được xem như một đặc tính của tinh thần hoặc các giác quan mà là một trong những hành động của chúng. Descartes mô tả những hành vi của việc trở nên có ý thức, chứ không phải những hành vi của một ý thức, trong khi Spinoza mô tả hành vi của linh hồn trở nên có ý thức về chính nó như “tính cảm giác”. Thuật ngữ “ý thức” lần đầu tiên được sử dụng nhất quán bởi Locke (1690), và theo sau ông là Leibniz (1765, Leibniz sử dụng thuật ngữ consciosite). Locke định nghĩa ý thức như “tri giác vê cái gì diễn ra trong tinh thần riêng của một người” (1690, tr. 42) và rút nó ra từ những hành vi của ý thức. Tuy nhiên, quan tâm chính của ông là lập luận từ sự kiện của ý thức, đến sự kiện của sự đồng nhất cá nhân, [để] biến ý thức thành cơ sở của một chủ thể: “Bởi lẽ, chính cùng ý thức như nhau đã làm cho một người là chính mình đối với chính mình, sự đồng nhất cá nhân phụ thuộc chỉ vào điều đó...” (tr. 163). Ý thức, từ việc là hành động của tinh thần hoặc của các giác quan, trở thành một hành vi của tự-ý thức đóng vai trò như một điều kiện cho mọi hành vi khác của ý thức. Với điều này, sự sợ hãi kiểu Aristoteles về một sự qui thoái vô tận đã được làm dịu đi. Kant phát triển tư tưởng rằng ý thức là một với tự-ý thức, nhưng không xem cái sau như thuộc tính của một chủ thể thường nghiệm.

Trường phái triết học Wolff đã xem ý thức như hành vi của việc có ý thức (Bewust seyn, conscium esse), hoặc như Meissner (1737) đã định nghĩa nó là “một đặc tính mà qua đó ta biết rằng ta đang suy tưởng”. Nó là một đặc tính thuần túy hình thức mà không có bất kỳ hàm ý nào gây ra những vấn đề tranh cãi về tự-ý thức và sự đồng nhất cá nhân. Kant tán thành quan điểm này về ý thức, khẳng định trong võng luận thứ ba rằng “vậy, sự đồng nhất của ý thức về chính tôi trong những thời gian khác nhau chỉ là một điều kiện mô thức của các ý tưởng của tôi và của sự nối kết giữa chúng, chứ không hề chứng minh sự đồng nhất số lượng của chủ thể tôi” (PPLTTT, A 363). Điều kiện mô thức này là sản phẩm của một “hành vi của tính tự khởi” vốn không thể được áp dụng vào bất kỳ chủ thể thường nghiệm nào hết; nó là “Tự-ý thức, tức là cái một khi làm nảy sinh biểu tượng “tôi tư duy” thì mọi biểu tượng khác đều phải có thể đi kèm theo ngay, và nó vẫn là nó trong mọi [hành vi của] ý thức và nó không thể lại đi kèm theo một biểu tượng nào khác nữa” (PPLTTT, B 132). Hành vi này, đồng nhất với thông giác thuần túy, tạo ra “sự thống nhất siêu nghiệm của tự-ý thức” vừa là điều kiện vừa là cái đi kèm của kinh nghiệm trong khi tự nó lại không phải là một đối tượng có thể có của kinh nghiệm. Nó đem lại một chân trời tiên nghiệm cho những phán đoán của kinh nghiệm vốn không gì khác hon là “sự thống nhất các biểu tượng trong một ý thức” (SL § 22). Như thế, nó phải được phân biệt triệt để với ý thức về chính chúng ta như những hữu thể thường nghiệm, hữu hạn, vốn là quan tâm của “ý thức (được áp dụng trong) tâm lý học” (NLH, § 7).

Thế hệ các triết gia ngay sau Kant đã biến Tự-ý thức thành “nguyên tắc cao nhất” của các hệ thống triết học của họ. Schelling, chẳng hạn, tuyên bố rằng “chắc chắn là với chúng ta, nhận thức Sổ yếu là nhận thức về chính ta, hay tự-nhận thức” (1800, tr. 23). Tuy nhiên, Hegel đã nỗ lực vượt khỏi triết học về ý thức. Ông phân biệt giữa ý thức, là cái quan hệ với một đối tượng, với Tự-ý thức là cái quan hệ giữa một chủ thể với Tự-ý thức khác. Ông phê phán Kant và Fichte đã bỏ qua [sự phân biệt] ý thức và Tự-ý thức, và cho rằng điều này đã dẫn đến việc đặt ra một cái Tự-ý thức bất khả tri nhưng lại có tính chủ quyền, xem các Tự-ý thức khác như thể chúng là những sự vật. Trong Hiện tượng học Tinh thần, Hegel đưa ra một khảo sát về sự ra đời của ý thức và Tự-ý thức dựa trên một sự đấu tranh giành sự thừa nhận, trong đó Tự-ý thức được khám phá thông qua sự thừa nhận của Tự-ý thức khác. Thoát ly khỏi việc đặt ngang hàng, trên phưong diện lý thuyết, giữa Tự-ý thức với chủ thể thống nhất, sự phát triển này đã báo trước nhiều bước phát triển trong triết học về ý thức của thế kỷ XX, nhất là những phát triển trong lĩnh vực phân tâm học, ở đó cái vô thức được xem như một nguồn suối của ý nghĩa được định vị ở bên kia chủ thể cá nhân (xem Freud, 1915). Chủ đề về ý thức có tầm ý nghĩa chính trị trong lý thuyết mácxít và nghiên cứu mácxít về ý thức giai cấp (xem Tenin, 1902; Tukács, 1922).

Hoàng Phú Phương dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Bewußtsein /n -s/

1. tri giác; 2. sự nhận .thúc, ý muôn, giác ngộ, tự giác.

Thuật ngữ - Điện Điện Tử - Đức Anh Việt (nnt)

Bewußtsein

[EN] awareness

[VI] nhận thức

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Bewusstsein

[VI] Ý thức [sự]

[DE] Bewusstsein

[EN] Consciousness

Bewusstsein

[VI] Ý thức

[DE] Bewusstsein

[EN]

Từ điển Phật Giáo Việt-Đức-Anh

das Bewusstsein

[VI] Thức

[DE] das Bewusstsein

[EN] Consciousness

das Bewusstsein,der Bewusstseinszustand,citta

[VI] Tâm

[DE] das Bewusstsein, der Bewusstseinszustand, citta (P)

[EN] consciousness, state of consciousness, citta (P)

Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

Bewusstsein

[DE] Bewusstsein

[EN] Awareness

[VI] sự quan tâm, nhận thức, kiến thức

Metzler Lexikon Philosophie

Bewusstsein

Als philosophischer Terminus wird B. erstmals von Chr. Wolff als das Vorstellen von Gegenständen erläutert. Für die bis in die Gegenwart reichende Diskussion des Begriffs sind Descartes’ Ausführungen bestimmend geworden: Das B. fungiert als Oberbegriff für verschiedene Formen von Bewusstseinsweisen wie Verstehen, Einbilden, Wollen, Fühlen, Zweifeln. Unter diesen Oberbegriff lassen sich alle Formen der Aufmerksamkeit und des Erlebens subsumieren. Mit diesen Formen des B. geht gleichzeitig eine Form reflexiven Wissens einher, d.h. bei jedem einzelnen Vollzug solcher Bewusstseinsweisen habe ich (als vollziehendes Subjekt) das begleitende B., dass ich es bin, der denkt. In seinem methodischen Zweifel macht Descartes dieses Wissen explizit: Bei allem Zweifel an der Existenz der äußeren Welt kann ich mein Zweifeln selbst nicht in Frage stellen. Diese Selbstgewissheit, dass ich denke, bildet die Grundlage der gesicherten Erkenntnis. Bei Leibniz werden beide Aspekte des B. terminologisch bestimmt: Die Perzeption gilt als der innere Zustand einer Monade, durch den äußere Dinge repräsentiert werden, die Apperzeption stellt die reflexive Kenntnis dieses inneren Zustandes dar. – In der philosophischen Theorie des B. nimmt Kant eine herausragende Stellung ein. Er stellt dessen besondere Leistung als einheitsstiftende Instanz für jede Erfahrung heraus. Kant unterscheidet dabei das empirische von dem transzendentalen B. Die Einheit des B. ist der Grund aller Gegenstandskonstitution. Ohne Bezug auf ein empirisches B. gäbe es die Vorstellungen nicht. Andererseits hat alles empirische B. einen notwendigen Bezug auf ein transzendentales B. Es stellt den obersten einheitsstiftenden Bezugspunkt allen empirischen B.s dar. Die Notwendigkeit eines solchen Einheitspunktes begründet Kant mit dem Hinweis, dass alles Erkennen in der Verbindung einer Vielfalt von Vorstellungen zu einer Einheit bestehe. Diese einheitsstiftende Verbindung kann nicht dem Objekt entstammen, sondern muss einem von der rezeptiven Sinnlichkeit verschiedenen Vermögen, nämlich der Spontaneität der Verstandeshandlung, zugeschrieben werden. Unter dem gesuchten obersten Prinzip aller Verbindung (Synthesis) versteht Kant jene Verstandeshandlung, die allen Formen der Synthesis zugrundeliegt. Die Quelle aller Synthesis liegt in einem einheitsstiftenden Verbinden (d.i. einer ursprünglichen Synthesis), die vor aller empirisch oder kategorial bestimmten Verbindung liegt (ohne selbst wiederum von einer noch höheren Verbindung abhängig zu sein). – In der Phänomenologie Husserls wird der Begriff des B. als Grundlage aller Sinnkonstitutionen der Wirklichkeit ausgewiesen. Ausgangspunkt seiner Philosophie ist die Annahme der Korrelation von B. und Welt. Der grundlegende Begriff der Intentionalität des B. zeigt an, dass B. immer B. von etwas ist. So ist alles raum-zeitliche Sein der Wirklichkeit nur insofern, als es auf ein erfahrendes, wahrnehmendes, denkendes, sich erinnerndes B. bezogen ist. Die Welt ist das Korrelat von Bewusstseinsleistungen. Die Sinnstiftungen des B. ermöglichen erst das Verstehen der Welt in Bedeutungsdimensionen und hinsichtlich ihres Geltungscharakters als etwas Existierendes. Die Phänomenologie als Erkenntniskritik macht es sich zur Aufgabe, diese konstituierenden Leistungen des B. in ihrer allgemeinen Struktur auszuweisen. Dabei wird die intentionale Struktur des B. als Cogitatio dargestellt, die sich nach Vollzug (Noesis) und gemeintem Inhalt (Noema) gliedern lässt. Insofern die transzendentale Phänomenologie auf die erkennende Subjektivität als Urstätte aller objektiven Sinnbildungen und Seinsgeltungen zurückgeht, behandelt sie zugleich deren intentionales Korrelat »Welt«.

PP

Die Termini »bewusst« und »B.« decken im alltäglichen Sprachgebrauch eine Vielzahl von Phänomenen ab, die alle zum Bereich des Mentalen gehören. Sie erschöpfen diesen aber nicht vollständig, da es auch unbewusste mentale Zustände bzw. Vorgänge gibt. Gegen Descartes’ und Lockes Identifizierung des Bereichs bewusster Zustände mit dem Bereich des Mentalen spricht, dass sie die Existenz unbewusster mentaler Zustände schon aus begrifflichen Gründen ausschließt. – Neben der Psychologie, den Kognitionswissenschaften, der Neurophysiologie und der Biologie (Verhaltensforschung) beschäftigt sich die Philosophie des Geistes (Philosophy of Mind) mit einer Analyse des B.s. Drei Ausgangspunkte einer solchen philosophischen Analyse lassen sich unterscheiden. (1) In der substantivischen Redeweise mit bestimmtem Artikel wird »das B.« gedeutet als eine Substanz (Ich, Seele), die Träger oder Subjekt bestimmter Eigenschaften und Zustände ist. Diese vor allem auf Descartes zurückgehende Konzeption einer res cogitans analysiert das Phänomen B. in engem Zusammenhang mit dem Phänomen Selbstbewusstsein und konzentriert sich auf die epistemischen Besonderheiten der Relation zwischen einem Subjekt und seinen bewussten Zuständen. (2) In einer vermögenspsychologischen Konzeption heißt, B. zu haben, über gewisse kognitive Fähigkeiten zu verfügen (Außenweltwissen, reflexives Wissen von sich selbst). (3) Eine dritte Zugangsweise befasst sich mit den besonderen Eigenschaften und Merkmalen bewusster Zustände und Erlebnisse (subjektiver Charakter, Unmittelbarkeit, privilegierter Zugang). – Zwischen diesen drei Ansatzpunkten können Zusammenhänge gesehen werden. So schließt Descartes von den besonderen Eigenschaften bewusster Zustände (3) auf die Existenz einer besonderen Substanz (res cogitans) (1), die wesentlich dadurch definiert ist, dass sie das Subjekt solcher bewussten Zustände ist. Auch in der vermögenspsychologischen Analyse des B.s (2) spielen die spezifischen Merkmale bewusster Zustände (3) eine entscheidende Rolle, da über sie das B. als Vermögen bestimmt wird. Nicht nur die Klasse aller mentalen Zustände, sondern auch die Klasse bewusster Zustände bildet noch ein umfangreiches und inhomogenes Feld. Angesichts der unterschiedlichen Merkmale, die zur Analyse bewusster Zustände angeführt werden, ist die Redeweise von dem B. jedenfalls zu vage.

Im Rahmen unseres alltäglichen mentalen Idioms (Folk psychology) sprechen wir davon, dass ein Lebewesen, auch ein Tier, B. hat, wenn es wach ist, aufmerksam seine Umwelt wahrnimmt und angemessen (koordiniert und kohärent) auf sie reagiert. Von bewussten Zuständen sprechen wir bei einem breiten Spektrum mentaler Zustände, vom Hunger oder Schmerz, den ein Tier verspürt, bis zu intellektuell gesteuerten Vorgängen des Nachdenkens und der methodischen Problemlösung bei Menschen. Die Alltagssprache greift damit zur Bestimmung von B. ein allgemeines Merkmal heraus. Im Rahmen einer philosophischen Klassifikation jedoch ist es sinnvoll, drei Bereiche bewusster Zustände zu unterscheiden. (a) Intentionale Zustände, wie glauben oder fürchten, dass dieses oder jenes geschehen wird, werden durch die Angabe eines propositionalen Gehalts in sprachlich strukturierter Form (»dass p«) wiedergegeben. (b) Für Erlebnisse ist charakteristisch, dass in ihnen eine Person ihre eigenen psychischen und/oder leiblichen Zustände (Schmerzempfinden) oder aber äußere, raumzeitliche Gegenstände (den Gelb-Eindruck bei einer Farbwahrnehmung) phänomenal erlebt. Der Erlebnischarakter, der auch für Gefühle (Angst) und Stimmungen (Traurigkeit) wesentlich ist, hat keinen sprachlich strukturierten repräsentationalen Gehalt und ist daher kein intentionaler Zustand. (c) Wahrnehmungen (von Farben, Tönen, Gestalten, Bewegungen etc.) sind ein dritter Bereich bewusster Zustände. Sie weisen neben einem phänomenalen Aspekt auch das Merkmal der Intentionalität auf; sie haben einen repräsentationalen Gehalt. Identifiziert man den Gehalt von Wahrnehmungen mit intentionalen Einstellungen, so sind Wahrnehmungen auf (a) und/oder (b) reduzierbar. Andernfalls bilden sie einen eigenständigen Bereich. Unabhängig davon, ob man Wahrnehmungen als einen eigenständigen Bereich ansieht, werden in der gegenwärtigen Philosophie des Geistes zwei Aspekte von B. unterschieden: das phänomenale B. und das Access-B. Das phänomenale B. bezeichnet die Besonderheit von Wahrnehmungs- und Erlebniszuständen, den intrinsisch subjektiven Charakter, eine Erlebnisqualität zu haben (Qualia). Es ist für das Subjekt irgendwie, in diesem Zustand zu sein (Th. Nagel). Dies ist vor allem ein Merkmal von Erlebniszuständen, bildet aber auch einen Aspekt von Wahrnehmungen. Unter Access-B. hingegen versteht man die Besonderheit intentionaler Zustände, dass ein Subjekt einen Zugang zu dem repräsentationalen Gehalt dieser Zustände hat. An das Access-B. werden in der Philosophie des Geistes unterschiedlich starke Forderungen hinsichtlich der Beschaffenheit dieses Zugangs gestellt. (a) Die strikte Variante macht es zur Bedingung für das Vorliegen von B., dass das Subjekt einen sprachlichen Bericht über den repräsentationalen Gehalt und darüber, dass es in dem-und-dem intentionalen Zustand ist, geben kann. (b) Mittlere Positionen fordern lediglich, dass der repräsentationale Gehalt dem Subjekt im Denken zugänglich sein muss. (c) Schwache Positionen beschränken sich auf die Forderung, dass der repräsentationale Gehalt eines Zustands in einem informationsverarbeitenden System in rational erfassbaren Zusammenhängen steht und z.B. Handlungsabläufe koordinieren hilft oder andere Zustände hervorruft, deren repräsentationaler Gehalt ihrerseits mit dem ursprünglichen Zustand in einem sinnvollen Zusammenhang steht. Akzeptiert man die schwache Position (c), so gelten auch solche Zustände als Fälle von Access-B., die zwar das Verhalten eines intelligenten Systems steuern, deren repräsentationaler Gehalt aber dem System nicht in Form eines intentionalen Zustands gegeben ist. Gerade für den Bereich von Wahrnehmungen, die das Verhalten steuern, gewinnt diese Analyse an Plausibilität, z.B. wenn ein Subjekt einem Hindernis ausweicht, dessen Herannahen es wahrnimmt. Die in der Wahrnehmung enthaltene Information (der repräsentationale Gehalt) steuert das Verhalten, ohne dass das Subjekt sich diese Information in einem intentionalen Zustand verdeutlicht haben müsste. Im Rahmen von (c) ist auch ein Begriff von repräsentationalem Gehalt konsistent, der sich nicht als Gehalt eines sprachlich strukturierten intentionalen Zustands wiedergeben lässt (subdoxastische Zustände). Unter dieser Voraussetzung kann die These vertreten werden, dass eine Teilmenge von Wahrnehmungen als subdoxastische Zustände aufzufassen sind und als solche eine echte Unterklasse bewusster Zustände und nicht etwa nur einen Sonderfall intentionaler Zustände bilden.

Unterscheidung und Zuordnung von B. und Selbstbewusstsein (als diejenigen Zustände, bei denen ein Subjekt sich seiner selbst bewusst ist) sind aus drei Gründen schwierig: (1) In beiden Bereichen müssen jeweils interne Unterscheidungen getroffen werden; weder die bewussten noch die selbstbewussten Zustände bilden einen homogenen Bereich. (2) Je nach Klassifikationskriterium und Definition gelten Teile des B.s per se als Selbstbewusstsein. So werden gelegentlich Erlebnisse der jeweils eigenen bewussten Zustände als nichtpropositionales Selbstbewusstsein gedeutet. Außerdem wird häufig angenommen, dafür, dass sich ein Subjekt im intentionalen Zustand, zu glauben, dass p, befindet, sei es eine notwendige Bedingung, dass das Subjekt berichten kann, dass es in diesem Zustand ist. Trifft diese Annahme zu, so setzen intentionale bewusste Zustände generell intentionale selbstbewusste Zustände voraus. (3) Einigen Theorien zufolge ist B. nicht ohne Selbstbewusstsein möglich, anderen Ansätzen zufolge lässt sich Selbstbewusstsein als Sonderfall intentionaler Zustände deuten.

Angesichts dieser Vielfalt begrifflicher Unterscheidungen und theoretischer Alternativen ist es nicht weiter verwunderlich, dass in der Philosophie des Geistes keine Einigkeit über das Wesen des B.s, das Verhältnis von B. zu Selbstbewusstsein, die epistemische oder ontologische Besonderheit von B. oder Selbstbewusstsein zu erzielen ist und dass dementsprechend auch die Chancen einer Naturalisierung dieser Phänomene sowie der Entwicklung bewusster Maschinen (Künstliche Intelligenz) sehr unterschiedlich eingeschätzt werden. Für die These, dass B. durch ein physikalistisches Weltbild nicht erfassbar sei, wird vor allem auf den phänomenalen Charakter von Erlebnissen verwiesen (Th. Nagel, C. McGinn). Gegen Versuche der Identifikation intentionaler mit physikalischen Zuständen wird eingewandt, dass die Rationalität propositionaler Gehalte einen normativen Aspekt impliziere (D. Dennett). Die Eigenschaft der Rationalität des Gehalts von intentionalen Zuständen ist Thema der Diskussion über das Leib-Seele-Problem und das Problem der mentalen Verursachung. Auch die Besonderheit des unmittelbaren introspektiven Zugangs, über den ein Subjekt bezüglich seiner eigenen Erlebnisse und intentionalen Zustände verfügt, dient seit Descartes immer wieder als Argument für die prinzipielle Andersartigkeit bewusster (und selbstbewusster) Zustände gegenüber physischen Zuständen und Ereignissen. Im Rahmen der Entwicklung von Systemen künstlicher Intelligenz geht der Streit darum, ob das Access-B. vom phänomenalen B. abhängig ist oder nicht. – In einem sachlich anders gelagerten Kontext ist B. auch eine sozialphilosophische Kategorie. So ist bei Marx und in den an ihn anknüpfenden neomarxistischen, kritischen Gesellschaftstheorien von »Klassenbewusstsein«, »historischem B.« und in einem ideologiekritischen Sinne von »falschem B.« die Rede. Mit »B.« sind hier die Überzeugungen, der Wissensstand und das Analysevermögen sozialer Gruppen gemeint, soweit sie für deren historisch-politische Situation und deren Stabilisierung oder Veränderung relevant sind.

GMO/MQ

Höherstufige Theorien des B.s in der Philosophie des Geistes versuchen, die besondere Eigenschaft des B.s mentaler Zustände durch Repräsentationen höherer Ordnung zu erklären. Letztere bestehen in höherstufigen Erfahrungen wie z.B. einem Gedanken oder einer Überzeugung. Anders als z.B. für Descartes ist für Vertreter dieser Richtung wie David M. Rosenthal die Auffassung grundlegend, dass die Eigenschaft des B.s relationaler und nicht intrinsischer Natur ist. So kommt einem mentalen Zustand x nicht per se B. zu, sondern wird nach Rosenthals höherstufiger Gedankentheorie (HOT) x erst dadurch verliehen, dass ein Gedanke y auf x gerichtet ist, ohne dass y selber bewusst wäre. Dabei wird der Gedanke y gerade nicht durch schlussfolgernde Beobachtung bezüglich x gewonnen, sondern ist nach dieser Auffassung nicht-inferenziell durch x verursacht, weil dies sonst andernfalls die Vermutung nahe legen würde, dass y selber ein bewusster Gedanke ist. Rosenthal betont, dass die Vorzüge von HOT u. a. darin bestehen, dass sie eine nicht-zirkuläre und damit informative Erklärung des B.s ermöglicht. Gegen die HOT ist die Reichhaltigkeit und Feinkörnigkeit eines analogen, intentional erfassten Wahrnehmungsinhaltes geltend gemacht worden. Ist es plausibel anzunehmen, dass es zu jedem bewusst wahrgenommenen Element aktuelle, nicht-bewusste Überzeugungen bzw. Gedanken gibt, deren wir uns nicht bewusst sind? Carruthers hat deshalb eine Theorie dispositionaler höherstufiger Gedanken entwickelt. Bei einem phänomenal reichhaltigen bewussten Wahrnehmungserlebnis sind die entsprechenden Gedanken und Überzeugungen nach dieser Theorie nur potentiell aber nicht aktuell bewusst. Umstritten ist jedoch ebenfalls die grundlegende Auffassung der HOT, dass B. eine relationale und keine intrinsische Eigenschaft mentaler Zustände sein soll. Warum ist es plausibel anzunehmen, dass der nicht-bewusste Gedanke y, der x begleitet oder durch x verursacht ist, diesem mentalen Zustand B. verleiht? Anstatt B. aus nicht bewussten relationalen Strukturen abzuleiten, ist deshalb der Vorschlag gemacht worden, reflexiv erfasste, bewusste oder auch selbstbewusste Zustände durch vorangehende präreflexiv-bewusste mentale Zustände zu erklären. Dies erfordert einen qualifizierten Begriff von Reflexivität, der Rosenthals Vorwurf einer uninformativen vitiösen Zirkelstruktur entkräften kann. Zudem ist auch zu untersuchen, ob eine präreflexive Bewusstseinskonzeption z.B. Störungen des visuellen Erkennens wie beim Blindsehen ähnlich plausibel erklären kann, wie die oben skizzierten höherstufigen Theorien des B.s.

CT

LIT:

  • P. Bieri (Hg.): Analytische Philosophie des Geistes. Frankfurt 1981
  • C. Blakemore/S. Greenfield (Hg.): Mindwaves. Oxford 1987
  • M. Davies/G. W. Humphreys (Hg.): Consciousness. Oxford 1993
  • D. Dennett: Consciousness Explained. Boston 1991
  • R. Descartes: Meditationes de prima philosophia (1641)
  • J. G. Fichte: Grundlage der gesamten Wissenschaftslehre (1794)
  • E. Husserl: Logische Untersuchungen. Hua XIX
  • Ders.: Ideen zu einer reinen Phnomenologie und phnomenologischen Philosophie. Hua III/1
  • I. Kant: Kritik der reinen Vernunft (1781/1787)
  • G. W. Leibniz: Philosophische Schriften. Hg. C. I. Gerhardt. Berlin 187590. Bd. 4. S. 600
  • J. Locke: Essay Concerning Human Understanding (1690)
  • C. MacDonald/G. MacDonald (Hg.): Philosophy of Psychology. Oxford 1995
  • C. McGinn: The Problem of Consciousness. Oxford 1991
  • A. J. Marcel/E. Bisiach (Hg.): Consciousness in Contemporary Science. Oxford 1988
  • Th. Nagel: Mortal Questions. Cambridge 1979
  • Chr. Wolff: Vernnftige Gedanken von Gott, der Welt und der Seele der Menschen, auch von allen Dingen berhaupt, den Liebhabern der Wahrheit mitgetheilet. Frankfurt/Leipzig 71738.