TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

erklärung

phần bù

 
Thuật ngữ toán lý hóa Đức-Việt-Anh-Pháp

sự tường thuật

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

giải thích

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giảng giải

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cắt nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

giải nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thuyết minh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lý giải

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tuyên bó

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tuyên ngôn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tuyên cáo

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

công bô.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

định nghĩa

 
Từ điển triết học Kant

Anh

erklärung

definition

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển triết học Kant

explement

 
Thuật ngữ toán lý hóa Đức-Việt-Anh-Pháp

declaration

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

explanation

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

narrative

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Đức

erklärung

Erklärung

 
Thuật ngữ toán lý hóa Đức-Việt-Anh-Pháp
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Metzler Lexikon Philosophie
Từ điển triết học Kant

Erklären

 
Metzler Lexikon Philosophie

erklärung/definition

 
Từ điển triết học Kant

definition

 
Từ điển triết học Kant

Pháp

erklärung

explication

 
Thuật ngữ toán lý hóa Đức-Việt-Anh-Pháp
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

déclaration

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Chuyên ngành CN Sinh Học (nnt)

Eine Erklärung für den Crabtree-Effekt liegt in der Konkurrenzsituation bei großem Nahrungsangebot, beispielsweise auf reifen Früchten.

Một cách giải thích về hiệu ứng Crabtree là do sự cạnh tranh với vi khuẩn khi có nhiều thức ăn, thí dụ ở trái cây chín.

Chuyên ngành KT ô tô & xe máy (nnt)

Das Verfahren bildet die Grundlage zur Erklärung kommunikativer Abläufe.

Phương pháp này là cơ sở để giải thích những tiến trình truyền thông.

v der Verantwortlichen Erklärung des Abfallerzeu­ gers einschließlich der Deklarationsanalyse,

Giấy xác nhận trách nhiệm của bên tạo ra chất thải kể cả phần về phân tích khai báo,

Zur Erklärung wendet man das „4-Ohren-Modell“ an (Bild 1).

Để giải thích vấn đề này người ta sử dụng mô hình “4 tai” (Hình 1).

Từ điển triết học Kant

Định nghĩa (sự) [Latinh: definitio; Đức: Erklärung/Definition; Anh: definition]

Xem thêm: Phân tích, Bản thể, Phương pháp, Triết học, Chân lý,

Trong quyển PPLTTT, Kant mô tả định nghĩa như là sự “diễn tả khái niệm về sự vật một cách tường minh trong các ranh giới của nó một cách căn nguyên”: “sự tường minh” lại có nghĩa là “sự rõ ràng và đầy đủ các đặc điểm”; “trong các ranh giới” nghĩa là sự chính xác của những đặc điểm trong một khái niệm, và “căn nguyên” nghĩa là đặc điểm của ranh giới không được rút ra từ nơi khác (PPLTTT A 728/B 756). Kant quảng diễn rộng để chỉ ra rằng, nói một cách chặt chẽ, không thể có những định nghĩa triết học. Những khái niệm thường nghiệm cũng không thể định nghĩa được, bởi vì không thể biết được chính xác ranh giới của chúng, cũng như không biết chắc chắn chúng có là căn nguyên không. Chúng có thể được giải nghĩa (explicated) bằng cách làm cho nội dung của chúng trở nên minh nhiên, nhưng chúng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của định nghĩa. Cũng không thể định nghĩa các khái niệm tiên nghiệm, vì không thể đoan chắc rằng sự phân tích đã được tiến hành một cách tường minh hay hoàn chỉnh: “sự tường minh của việc phân tích khái niệm của tôi bao giờ cũng còn đáng ngờ, và các trường hợp được kiểm chứng chỉ đủ để xác tín một cách phỏng chừng về nó chứ không làm cho nó thành một sự xác tín hiển nhiên được” (PPLTTT A 729/B 757). Ta có thể mang lại một sự trĩnh bày (exposition) cho những khái niệm như thế nhưng chỉ là một sự phỏng chừng “gần đúng” (L tr. 633) đối với một định nghĩa. Khái niệm duy nhất có thể định nghĩa được là một khái niệm “do chính tôi tạo ra” (PPLTTT A 729/B 757) vì tôi dám đoan chắc về sự phù hợp của nó với những yêu cầu của “ranh giới” và “tính căn nguyên”. Chỉ toán học mới có được các khái niệm như vậy, vì vậy chỉ có nó mới có các định nghĩa.

Kant giảm ngay sự chỉ trích gay gắt của mình về cách dùng từ định nghĩa trong triết học với lý do là ngôn ngữ Đức lại chỉ có một từ duy nhất là “cắt nghĩa” (Eklârung) dùng chung cho các thuật ngữ [Latinh] như: trình bày (expositio), giải thích (explicatio), tuyên bố (declaratio), và định nghĩa (dehnitio) (PPLTTT A 730/B 758). Nhưng Kant vẫn kiên định rằng việc sử dụng thuật ngữ triết học đối với chữ định nghĩa phải được phân biệt với việc sử dụng chữ định nghĩa đúng nghĩa, tức trong toán học. Sự quan tâm này quay trở lại với nỗ lực chống Wolff trước đây trong PE nhằm phân biệt phương pháp tổng hợp của toán học với phương pháp phân tích của triết học. Toán học tạo ra những định nghĩa của nó một cách tổng hợp, và toán học xác tín hiển nhiên về chúng, thế nên, trên nền tảng này có thể vững tin triển khai những diễn dịch tổng hợp. Triết học, ngược lại, không thể bắt đầu với những định nghĩa, mà chỉ có những khái niệm mù mờ cần phải đưa ra để phân tích. Kant thẳng thắn ghi nhận trong một cước chú rằng: “triết học đầy rẫy những định nghĩa sai lầm” và ắt “sẽ gây khó khăn lớn cho triết học nếu đòi hỏi một khái niệm phải được định nghĩa thật đầy đủ trước khi được phép sử dụng (PPLTTT cước chú cho A 731/B 759). Những trình bày có tính phân tích của triết học về những khái niệm có thể chưa đạt được sự chặt chẽ theo đúng yêu cầu của định nghĩa đúng nghĩa, nhưng những phỏng chừng gần đúng của nó có thể tiếp cận đến chân lý và “mang lại lợi ích lớn lao” (sđd).

Khi bàn về định nghĩa trong L§§105-8, Kant vẫn còn ở trong quỹ đạo của truyền thống triết học Wolff, và đưa ra một loạt tiêu chí để xác lập những định nghĩa triết học. Vì việc bàn về định nghĩa trong PPLTTT thường đi ngược lại sự thuyết giảng của Kant trong L§§105-8 nói trên, thiết tưởng có ích khi giới thiệu một vài điểm phân biệt quan trọng nhất. Trước tiên là sự phân biệt giữa định nghĩa duy danh hay danh nghĩa (nominal) và định nghĩa hiện thực (real). Định nghĩa duy danh bao gồm nghĩa danh nghĩa của một thuật ngữ, tức “bản thể logic” của nó phân biệt nó với những thuật ngữ khác, trong khi đó định nghĩa hiện thực “đáp ứng yêu cầu của nhận thức về đối tượng dựa theo những quy định bên trong của nó” (tr. 634). Kant bổ sung những yêu cầu của định nghĩa liên quan đến bảng các phạm trù: lượng của nó quan tâm đến “lĩnh vực của định nghĩa”; chất của nó (là) sự “tường minh” và “chính xác”; tương quan của nó là nó không được có tính lặp thừa; và tình thái của nó là tồn tại tất yếu [tr. 635]. Sau cùng, Kant còn cung cấp một số quy tắc mang đậm tinh thần của Wolff để thẩm tra xem các định nghĩa có đúng, phân minh, hoàn chỉnh và thích đáng với những đối tượng của chúng hay không (sđd). Những tiêu chí và quy tắc này tuy không bao giờ nói rõ ra trong PPLTTT, nhưng mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc trình bày là quá rõ ràng.

Trần Kỳ Đồng dịch

Metzler Lexikon Philosophie

Erklären,Erklärung

In der wissenschaftstheoretischen Diskussion werden unterschiedliche E.typen behandelt: die kausale E., die intentionale, die genetische, die dispositionelle, ebenso die Unterscheidung von effektiver E., Erklärungsskizze und Erklärungsbehauptung. – Eine herausragende Stellung nimmt die kausale E. ein, insofern sie von Hempel, Popper u.a. als die wissenschaftliche Erklärung schlechthin dargestellt wird. Die kausale E. wird in der Form der deduktiv-nomologischen und der induktiv-statistischen behandelt. Zu beiden E.arten existiert eine ausführliche Diskussion im Hinblick auf die Adäquatheitsbedingungen und auf die Abgrenzung zu Pseudoerklärungen. Eine vollständige E. ist nach Hempel, Oppenheim, Popper entweder ein deduktives oder ein induktives Argument, dessen Prämissen das Explanans bilden. In einer deduktiv-nomologischen E. bestehen die Prämissen aus (mindestens) einem singulären Satz, der die Anfangsbedingungen beschreibt, und einer Gesetzesaussage, mit Hilfe derer der Zusammenhang zwischen Anfangsbedingungen und dem zu erklärenden Ereignis hergestellt wird. Aus diesen beiden Prämissen lässt sich mit logischer Notwendigkeit das Explanandum folgern. Hempel und Oppenheim haben folgende Bedingungen festgelegt, denen eine adäquate E. genügen muss: (1) Das Argument, welches vom Explanans zum Explanandum führt, muss korrekt sein, d.h. das Explanandum muss logisch aus dem Explanans folgen; (2) das Explanans muss mindestens ein allgemeines Gesetz enthalten (oder einen Satz, aus dem ein allgemeines Gesetz logisch folgt); (3) das Explanans muss empirischen Gehalt besitzen; (4) die Sätze, aus denen das Explanans besteht, müssen wahr sein. In einer induktiv-statistischen E. kann auf der Grundlage eines singulären Satzes und einem statistischen Gesetz die Aussage getroffen werden, dass ein Ereignis der Art G mit sehr hoher Wahrscheinlichkeit eintreten wird, wenn zuvor ein Ereignis der Art F stattgefunden hat. Die Adäquatheitsbedingungen legen fest, dass die Aussagen des Explanans dem Explanandum eine hohe induktive Wahrscheinlichkeit verleihen müssen, und dass das Explanans mindestens ein statistisches Gesetz enthalten muss. – Die Adäquatheitsbedingungen beinhalten einige Probleme: Bspw. gibt es kein eindeutiges Kriterium zur Unterscheidung von Gesetzen und Nicht-Gesetzen (d.h. kontingenten Generalisierungen zufälliger Regularitäten). Für das Postulat des empirischen Gehalts ermangelt es einer hinreichend genauen Definitionsmöglichkeit einer empirischen Sprache. – Der Begriff der wissenschaftlichen E. bildet ein ideales Modell. Die Abweichungen von diesem Modell, wie sie im Alltag und auch in der Wissenschaft vorkommen, werden als »unvollkommene E.en« bezeichnet. Dazu zählt bspw. die »rudimentäre (oder elliptische) E.«, die die sprachliche Gestalt von Weil-Sätzen oder Ursache-Wirkungs-Aussage hat (z.B. »das Auto verunglückte, weil der Reifen bei hoher Geschwindigkeit platzte«). Deren Unvollkommenheit besteht in der unvollständigen Wiedergabe der relevanten Daten und in dem Unerwähntlassen der benötigten Gesetze. Eine andere Art unvollkommener E. stellt die partielle E. dar, deren Explanans nicht hinreichend ist, um das Explanandum in all den beschriebenen Hinsichten zu erklären, sondern nur einige Aspekte betrifft. Die Unvollkommenheit der Erklärungsskizze besteht darin, dass das Explanans unvollständig und ungenau formuliert wird. Es enthält nur mehr oder weniger vage Hinweise darauf, wie Antecedensdaten und Gesetze ergänzt werden könnten, damit daraus eine befriedigende rationale E. entsteht. Dies trifft für jene Fälle zu, wo zum gegenwärtigen Zeitpunkt keine geeigneten, empirisch fundierten Gesetzmäßigkeiten angegeben werden können. – Für eine befriedigende E. werden zwei Vollständigkeitsprinzipien formuliert: (1) Das zu erklärende Phänomen oder Ereignis muss in allen seinen Einzelheiten erklärt werden. (2) Die E. darf nichts unerklärt lassen, d.h. keinerlei Ausnahmen machen, die ihrerseits einer E. bedürftig sind. Bei der Erfüllung der ersten Bedingung ist eine totale E. gegeben, bei der Erfüllung der zweiten eine abgeschlossene. Beide Vollständigkeitsprinzipien sind anzweifelbar: Eine totale E. ist deshalb ausgeschlossen, da die dazu erforderliche vollständige Beschreibung nicht möglich ist. Die abgeschlossene E. ist unmöglich, weil der Versuch einer vollständigen E. aller Antecedensdaten in einen unendlichen Regress führen müsste oder bei Annahme eines einzigen fundamentalen Gesetzes dieses selbst nicht mehr erklärbar wäre.

Eine genetische E. liegt vor, wenn man eine bestimmte Tatsache nicht einfach aus den Antecedensbedingungen (Antecedens) und Gesetzmäßigkeiten erschließt, sondern wenn gezeigt wird, dass diese Tatsache das Endglied einer längeren Entwicklungsreihe bildet, deren einzelne Stufen man genauer verfolgen kann.

Eine dispositionelle E. liegt dann vor, wenn das Verhalten von Gegenständen mit Hilfe von Dispositionen erklärt wird, die diesen Gegenständen zukommen. Dazu gehören solche Fälle, in denen die Tätigkeit handelnder Personen mit Hilfe von Charakteranlagen, Überzeugungen, Zwecksetzungen erklärt werden soll. – Bspw. hat die dispositionelle Eigenschaft der Brüchigkeit (einer Scheibe) gesetzesartige Konsequenzen (wenn sie von einem Stein getroffen wurde), aber im Unterschied zu echten Gesetzen wird in der Dispositionsaussage ein bestimmtes Objekt (d.i. diese konkrete Scheibe) erwähnt. Ryle nennt daher Dispositionssätze »gesetzesartige Aussagen«.

Für den Bereich der Handlungserklärung entwickelt v. Wright das Modell einer intentionalen oder teleologischen E. anhand des Schemas eines praktischen Schlusses: 1. Eine Person A beabsichtigt p herbeizuführen, 2. A glaubt, dass er p nur herbeiführen kann, wenn er eine konkrete Tätigkeit a ausführt. 3. Folglich macht sich A daran, a zu tun. Anhand dieses Schlusses wird ersichtlich, dass in einer intentionalen E. die in der Konklusion genannte Handlung durch Bezug auf die (in der ersten Prämisse angeführten) Absicht beantwortet wird. Während für die kausale E. charakteristisch ist, dass die Wirkung in keinem logischen Zusammenhang mit der Ursache steht, ist es für die intentionale E. wesentlich, dass die in der Konklusion genannte Handlung in einem logisch notwendigen Zusammenhang mit den Prämissen steht. Die Verknüpfung zwischen Wille und Verhalten ist eine logische und damit nicht eine im Hume’schen Sinne kausale Relation. Die Prämissen des Schlusses stellen eine teleologische E. des Handelns dar. In einer teleologischen E. werden unterschiedliche Verhaltensweisen nicht unter Gesetze, sondern unter ein Ziel subsumiert, auf das das Verhalten ausgerichtet ist. V. Wright weist in einer ausführlichen Erörterung darauf hin, dass die Schlussfolgerung aus den Prämissen nur dann eine logische Folgerung darstellt, wenn einige Modifikationen des Schluss-Schemas vorgenommen werden: Es muss (a) eine Aussage das Wissen einer Person enthalten, um den Ausdruck »beabsichtigen« zu präzisieren, (b) ein Zeitindex eingeführt werden, um die Zukünftigkeit des Handlungsereignisses und der konkreten Handlung zu kennzeichnen, (c) eine Aussage eingefügt werden, dass die Person ihr Wissen nicht vergessen hat und von der Realisierung der Intention nicht abgehalten wurde.

PP

LIT:

  • K.-O. Apel: Neue Versuche ber Erklren und Verstehen. Frankfurt 1978
  • G. Ryle: Der Begriff des Geistes. Stuttgart 1969. S. 153 ff
  • W. Stegmller: Probleme und Resultate der Wissenschaftstheorie und analytischen Philosophie. Bd.I. Berlin/Heidelberg/New York 2., verb. A. 1983. Kap. I. u. XI.6
  • G. H. v. Wright: Erklren und Verstehen. Frankfurt 1974
  • Ders.: Probleme des Erklrens und Verstehens von Handlungen. In: Conceptus 19(1985). Nr. 47. S. 319.
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Erklärung

explication

Erklärung

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Erklärung /f =, -en/

1. [sự] giải thích, giảng giải, cắt nghĩa, giải nghĩa, thuyết minh, lý giải; giãi bày, thanh minh, biện bạch; 2. [sự, bản] tuyên bó, tuyên ngôn, tuyên cáo, công bô.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Erklärung /f/M_TÍNH/

[EN] narrative

[VI] sự tường thuật

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Erklärung

definition

Erklärung

explanation

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Erklärung /SCIENCE/

[DE] Erklärung

[EN] declaration

[FR] déclaration

Thuật ngữ toán lý hóa Đức-Việt-Anh-Pháp

explement

[DE] Erklärung

[VI] phần bù (cho đủ 360 )

[FR] explication