TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

đối tượng

đối tượng

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ Điển Tâm Lý
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển toán học Anh-Việt
Thuật ngữ phát triển chung của UNDP
Từ điển luyện kim - Anh - Việt
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

chủ đề

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

mục tiêu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

mục đích

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

vật thể

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

công cụ

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

khách thể/đối tượng/khách quan

 
Từ điển triết học HEGEL

khách thể

 
Từ điển triết học HEGEL

khách quan

 
Từ điển triết học HEGEL

biến đối tượng

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

bản thể

 
Từ điển toán học Anh-Việt

người hoặc bên có liên quan

 
Thuật ngữ phát triển chung của UNDP

cơ sở làm việc

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

cơ sở hạ tầng

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
đối tượng con

đối tượng con

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
1. đối tượng

1. Đối tượng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khách thể

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khách quan 2. Vật thể khách quan

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

vật kiện

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

sự vật 3. Mục tiêu

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

mục đích

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tôn chỉ

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

vật mục đích 4. Phản đối

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

cự tuyệt.<BR>formal ~ Hình thức đối tượng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

hình thức khách quan

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Anh

đối tượng

object

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

 entity

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 subject

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 wideget

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

subject

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

object and objectivity

 
Từ điển triết học HEGEL

object variable

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

entity

 
Từ điển toán học Anh-Việt

Stakeholder

 
Thuật ngữ phát triển chung của UNDP

infra-structural objects

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)
đối tượng con

 subobject

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
1. đối tượng

object

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đức

đối tượng

gegenstand

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

objekt

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ding

 
Từ điển triết học Kant

objekt und objektivität

 
Từ điển triết học HEGEL

Materie

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Objektvariable

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

infrastrukturelle Objekte

 
Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

Pháp

đối tượng

Objet

 
Từ Điển Tâm Lý
Từ này chỉ có tính tham khảo!
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sie war der Gegen stand allgemeiner Bewunderung

nàng là đổi tượng của những lời ca tụng.

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

object

1. Đối tượng, khách thể, khách quan 2. Vật thể khách quan, vật kiện, sự vật 3. Mục tiêu, mục đích, tôn chỉ, vật mục đích 4. Phản đối, cự tuyệt.< BR> formal ~ Hình thức đối tượng, hình thức khách quan [một vật tồn hữu cụ thể do chủ thể quan sát mà tìm ra qua

Thuật ngữ-Cẩm Nang Cơ Điện Tử-Đức Việt Anh (nnt)

infrastrukturelle Objekte

[VI] Đối tượng, cơ sở làm việc, cơ sở hạ tầng

[EN] infra-structural objects

Từ điển luyện kim - Anh - Việt

object

vật thể, mục tiêu, mục đích, đối tượng

Thuật ngữ phát triển chung của UNDP

Stakeholder

[VI] (n) Đối tượng, người hoặc bên có liên quan

[EN] (i.e. people, groups, entities that have a role and interest in a project, activity). Hence, ~ group: Nhóm đối tượng.

Từ điển toán học Anh-Việt

entity

đối tượng; vật thể; bản thể

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Objekt /nt/M_TÍNH/

[EN] object, object variable

[VI] đối tượng, biến đối tượng

Objektvariable /f/M_TÍNH/

[EN] object, object variable

[VI] đối tượng, biến đối tượng

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Materie /[ma'te:ria], die; -, -n/

(bildungsspr ) đối tượng (điều tra); chủ đề (câu chuyện);

Gegenstand /der; -[e]s, Gegenstände/

(PI selten) mục tiêu; đối tượng; mục đích (Objekt, Ziel);

nàng là đổi tượng của những lời ca tụng. : sie war der Gegen stand allgemeiner Bewunderung

Từ điển triết học HEGEL

Đối tượng [Đức: Gegenstand; Anh: object] -ì Xem: Khách thể/Đối tưựng/Khách quan (sự, tính, cái) [Đức: Objekt und Objektivität; Anh: object and objectivity]

Khách thể/Đối tượng/Khách quan (sự, tính, cái) [Đức: Objekt und Objektivität; Anh: object and objectivity]

(Das) Objekt, từ chữ La-tinh objectum (quá khứ phân từ của động từ objicere, “ném ra phía trước hay ném ngược lại”), nghĩa là “cái gì đó ném /đã được ném ra phía trước hay được ném ngược lại”. Nó tương phản với “CHỦ THỂ” (“Subjekt”), “cái gì được ném hay được đặt ở dưới”. Từ khi xuất hiện lần đầu tiên trong các công trình của Duns Scotus cho đến thế kỷ XVIII, “Subjekt” và “Objekt” được sử dụng theo nghĩa ngược lại với nghĩa hiện đại của nó: “Subjekt” là cái chủ đề (“Subjekt”) nằm bên dưới diễn ngôn (hay “Objekt”), trong khi đó “Objekt” là cái gì được ném ngược trở lại hay hướng đến nó, nghĩa là quan niệm hay thuộc tính thuộc về “Subjekt”. Nhưng chính Wolff đã đem lại cho Objekt nghĩa của “cái gì đó

được ném ra, hay đặt ngược lại với tâm trí”, là “đối tượng” của Ý THỨC, của sự HÌNH DUNG hay NHẬN THỨC. Nó cũng có thể là đối tượng của sự phấn đấu, của ước muốn hay hành động. Nó không nhất thiết phải là thực thể vật lý đang hiện hữu: những con số, những con kỳ lân (trong thần thoại) hay bản thân ý thức đều có thể là Objekt của ý thức hay tư duy. Kant cũng dùng nó theo nghĩa hẹp hon về một đối tượng được mang lại trong kinh nghiệm, một đối tượng hiện thực: “Đối tượng là cái đa tạp của một trực quan được cho được hợp nhất lại trong khái niệm về đối tượng” (PPLTTT, B137). Objekt cũng được sử dụng theo nghĩa ngữ pháp cho bổ ngữ của động từ trong câu.

Cái đối ứng với nó trong tiếng Đức bản địa cũng xuất hiện bên cạnh từ Objekt: từ thế kỷ XVII, từ Gegenwurf (“cái được ném ngược lại”) trước đó được thay thế bằng từ Gegenstand (“cái đứng ngược lại hay đối diện với...”), mặc dù vào cuối thế kỷ XVII, Gegenstand vẫn còn xuất hiện trong nghĩa tôn giáo về “sự dựa cậy, sự kháng cự” tinh thần chống lại những cám dỗ, những ưu phiền. Trong phưong ngữ Swabian của Hegel, nó cũng mang nghĩa “trở ngại, trở lực”, nhưng trong tiếng Đức triết học, nó có nghĩa, giống như Objekt, là một “đối tượng” (của ý thức, nhận thức, hành động, v.v.) và một “đối tượng hiện thực”. Kant không nêu ra sự phân biệt giữa Objekt và Gegenstand.

Từ Gegenstand sinh ra tính từ gegenständlich (thuộc đối tượng/khách quan) và danh từ Gegenständlichkeit (tính đối tượng/tính khách quan). Nhưng giống với Kant, Hegel thường chuộng sử dụng những từ phát sinh từ Objekt: objective (thuộc đối tượng/khách thêVkhách quan), Objektivität (tính khách thêVkhách quan), và thỉnh thoảng, objektivieren (làm cho trở thành đối tượng/khách thể, khách thể hóa/đối tượng hóa). (Chẳng hạn: TÔN GIÁO bắt đầu với “sự khách thể hóa” bản tính phổ biến và cốt yếu của sự vật, nghĩa là sự biến đổi của nó thành một Thượng Đế khách quan). Nghĩa khái quát của từ objektiv là “thuộc về (một) khách thêVđối tượng”, nhưng những nghĩa riêng biệt hon của nó là: (1) “thực tồn, hiện thực, là một đối tượng/khách thê” (như trong “sự kiện khách quan”); (2) “vô tư, hướng đến đối tượng/khách thê” (như trong “một thái độ khách quan đối với các sự kiện”). Objecktivität có hai nghĩa tưong ứng: (1) “thực tại”; (2) “tính vô tư, không thiên vị”. Objektivität, theo nghĩa “tính vô tư”, có thể là trong thực hành cũng như trong nhận thức: chẳng hạn, tuân theo các quy tắc phi cá nhân, tưong phản với các ý thích cá nhân của ta.

Trong triết học Hegel, Objekt phân biệt với Gegenstand ở ba khía cạnh: (1) Hegel nhấn mạnh mặt từ nguyên học của Gegenstand hon là Objekt, do đó, Gegenstand, về bản chất và trực tiếp, là đối tượng của nhận thức, V.V., trong khi Objekt, ít nhất là thoạt đầu, là có tính độc lập (BKT I, §193). Gegenstand là một đối tượng ý hướng, trong khi Objekt là đối tượng hiện thực. (2) Khi Objekt là đối tượng của cái gì đó, nó thường là đối tượng của một Subjekt, trong khi Gegenstand là đối tượng của nhận thức (Wissen), Ỷ thức, cái TÔI, v.v. (Không có một phiên bản tiếng Đức bản địa nào tưong đưong với Subjekt). (3) Theo Hegel, HÌNH THỨC của ý thức và đối tượng của nó là phụ thuộc lẫn nhau và có tính phong phú và phức hợp tưong đưong nhau. Do đó, nếu Objekt là đối ứng với Subjekt, và (trong KHLG) chủ thể bao gồm KHÁI NIỆM, PHÁN ĐOÁN và SUY LUẬN, thì Objekt cũng phải là một hệ thống phức tạp của những đối tượng (chẳng hạn như hệ mặt trời) liên quan với nhau bằng các hình thức của suy luận. Gegenstand, ngược lại, có thể là đối tượng của một hình thức đon giản của ý thức, chẳng hạn như của sự XÁC TÍN CẢM TÍNH, vốn chưa phải là một chủ thể trưởng thành đầy đủ. (Trong DBTH, Gegenstand là một đối tượng CỤ THỂ với nhiều đặc điểm có thể tri giác được, nhưng nếu ta không xét đến hay TRỪU TƯỢNG HÓA khỏi chúng, cái còn lại là một Objekt trừu tượng).

Do vậy, trong HTHTT (Dẫn Nhập V.V.), nổi Hegel khảo sát các hình thái của ý thức ý hướng, từ tri thức thô Sổ nhất đến tri thức tuyệt đối, đối tượng bàn trong quyển này là Gegenstand. Nhưng trong KHLG, nổi “Objekt” tiếp sau “Khái niệm chủ quan” (BKTI) hay “Tính khách quan” tiếp sau “Tính chủ thể’ (KHLG), thì “Objekt” và “Objektivität” là “khách thể” và “tính khách quan" . “Objekt”, trải qua các giai đoạn cơ GIỚI LUẬN, HÓA HỌC LUẬN và MỤC ĐÍCH LUẬN, thể hiện “các QUY ĐỊNH khái niệm” đã phát triển trong “Khái niệm chủ quan” (nhất là cấu trúc tam đoạn luận), nhưng thoạt đầu được quan niệm như là độc lập với chủ thể nhận thức hay chủ thể thực hành. Khi Hegel nêu ra (“một”) vấn đề về nhận thức như “Bằng cách nào những chủ thể như chúng ta đạt đến các khách thể?” (BKTII, §246 A), thì các khách thể là các Objekte, không phải là Gegenstände, vốn chỉ liên quan đến ý thức. (Trong HTHTT, Dẫn nhập, khách thể vốn là thực tồn và do đó khó đạt đến thì không phải là Gegenstand, mà là die Sache (“sự việc”), “Sự VẬT”, V.V.).

Trong KHLG, Hegel cho rằng objektiv và Objektivität có hai nghĩa: (i) “Đứng đối lập với khái niệm độc lập” hay với cái Tôi, tức “thế giới đa tạp trong sự hiện hữu trực tiếp của nó”, mà khái niệm hay cái Tôi phải vượt qua. (Hegel liên hệ điều này với một “nghĩa ít xác định hon”, trong đó Objekt là Gegenstand của bất kỳ “mối quan tâm hay hành động nào của chủ thể”), (ii) “Cái Tự MÌNH VÀ CHO MÌNH thoát khỏi sự giới hạn và đối lập” bởi một chủ thể. Cái “khách quan” theo nghĩa này bao gồm các nguyên tắc lý tính và tất yếu về lý thuyết hay đời sống đạo đức, mà chủ thể chỉ đon giản phải tuân theo, hon là vượt bỏ hay thay đổi, và là cái khách thể mà chủ thể phải NHẬN THỨC [bằng sự theo dõi, quan sát] “thoát khỏi những sự thêm thắt của sự PHẢN TƯ chủ quan”. Co giới luận và hóa học luận, trong nghiên cứu của Hegel, bao gồm tính khách quan theo nghĩa (ii), trong khi mục đích luận, trong đó mục đích hay khái niệm thoát ly khỏi khách thể và nỗ lực quy định nó, bao gồm tính khách quan theo nghĩa (i). Nhưng, trong thực tế, đây là ba giai đoạn của tính khách quan, chứ không đon giản là hai: (1) một khách thể độc lập với chủ thể, theo nghĩa hoàn toàn không xét đến chủ thể (ngoại trừ trong chừng mực chủ thể hay khái niệm được tiền giả định một cách mặc nhiên như cấu tạo nên khách thể xét như là khách thể), đó là Cổ giới luận và hóa học luận.

(2) Một khách thể đứng đối lập với một chủ thể và được chủ thể vượt qua, tức là mục đích luận, nhưng ở cấp độ Ý NIỆM, là những ý niệm về cái chân (nhận thức) và về cái thiện (LUÂN LÝ nổi Kant và Fichte). (Đây là tính khách quan theo nghĩa (i) ở trên). (3) Một khách thể đã nỗ lực lao động để vưon đến sự TẤT YỂU và lý tính, khiến cho chủ thể không cần thay đổi hay quy định nó, mà chỉ đon giản là phải tuân theo nó. Điều này tưong ứng với ý niệm tuyệt đối, là cái, theo Hegel, vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Điều này được minh họa, chẳng hạn như, một ai đó nghiên cứu Lô-gíc học (kiểu Hegel) hay tuân theo những luật lệ và thực hành của NHÀ NƯỚC lý tính. (Đây là tính khách quan theo nghĩa (ii) ở trên).

Ở BKTI, §41A.2, Hegel phân biệt ba nghĩa của objektiv (tính khách quan): (a) nghĩa thông thường về “cái gì hiện diện ở bên ngoài, tương phản với những gì chỉ đơn thuần chủ quan, được tưởng tượng hay mơ mộng, V.V.”; (b) nghĩa theo Kant về “cái gì phổ biến và tất yếu, tương phản với cái bất tất, đặc thù và chủ quan của cảm giác”; (c) nghĩa được Hegel yêu chuộng là “TƯ TƯỞNG nhưng không đơn thuần là tư tưởng của ta, mà cũng là cái Tự MÌNH của sự VẬT (Dinge) và của cái khách quan (des Gegenständlichen) nói chung”. Nghĩa (a) tương ứng với nghĩa (i) nêu trên, trong khi nghĩa (ii) nêu trên bao gồm cả (b) và (c) này Hegel cho rằng Kant đã đúng khi nghĩ rằng những CÁI BÂT TÂT của cảm giác, V.V., là khách quan chỉ trong nghĩa suy biến, yếu ớt, tương phản với tư tưởng hay phạm trù, vốn là PHỔ BIẾN và tất yếu, vừa theo nghĩa chúng áp dụng cho mọi đối tượng, vừa theo nghĩa chúng không thay đổi từ người này sang người khác. Nhưng, với Kant, các tư tưởng vẫn là chủ quan theo nghĩa (c), vì ông xem chúng là được ta áp đặt lên sự vật, chứ không phải cấu tạo nên BẢN CHÂT của chúng (như xác tín của Hegel).

Cố gắng của Hegel để phân biệt những nghĩa khác nhau của Objektivität đã bỏ qua sự khác biệt giữa những thái độ khách quan hướng đến sự vật và bản thân những sự vật khách quan. Điều này bắt nguồn từ hai học thuyết: thứ nhất, cho rằng ở cấp độ cao nhất của tính khách quan, thái độ (hay chủ thể) và đối tượng của nó trùng khít với nhau; thứ hai, nói chung, những thái độ và những đối tượng của chúng là khách quan ở cùng một cấp độ hay đến cùng một mức độ: nếu, chẳng hạn, tôi tư duy một cách khách quan (nghĩa là một cách lý tính và vô tư, không thiên vị), tôi phân biệt những tư tưởng khách quan cấu tạo nên bản chất của sự vật, trong khi nếu tôi chỉ đơn thuần cảm giác hay tri giác, tôi chỉ phân biệt được tính khách quan thấp kém hơn của những thuộc tính cảm tính về sự vật. Nhưng không có gì rõ ràng rằng sự tương ứng này có thể đạt được. Những cảm giác của tôi có thể là bất chợt và chủ quan, nhưng điều này không dẫn đến việc những thuộc tính khả giác của sự vật (được khẳng định bởi việc đối chiếu những cảm giác khác nhau của một người quan sát và của nhiều người quan sát khác nhau) là hoàn toàn chủ quan. Thêm nữa, trong trường hợp phán đoán đạo đức và thẩm mỹ, một thái độ (vô tư) không bảo đảm cho một câu trả lời khách quan (đúng đắn), thậm chí cũng không tìm ra được một câu trả lời khách quan (đúng đắn). Trong trường hợp đạo đức học, rõ ràng không có một khách thể cho thái độ khách quan đạt đến, nhưng Hegel có xu hướng xem LUẬT PHÁP (hay bản thân NHÀ NƯỚC) như là một khách thể tưong tự với đối tượng của nhận thức.

Trong cả KHLG và BKTI, Hegel còn liên kết sự quá độ từ “khái niệm chủ quan” sang “khách thể’ với LUẬN CHỨNG bản thể học về sự hiện hữu của Thượng Đế.

Hoàng Phong Tuấn dịch

Từ điển triết học Kant

Đối tượng [Đức: Ding, Objekt, Gegenstand; Anh: object]

Xem thêm: Hiện tượng, Tồn tại, Hiện hữu, Không (cái), Vật-tự-thân, Đối tượng siêu nghiệm,

Khái niệm của Kant về một đối tượng là rất mực tinh tế, mặc dù những sắc thái của nó thường bị mất đi trong bản dịch [tiếng Anh của Kemp Smith] thiếu sự phân biệt và thiếu hệ thống về những thuật ngữ Ding, Gegenstand và Object của ông. Ở mức độ chung nhất trong triết học thực hành của mình, Kant đi theo sự phân biệt trong luật La mã giữa những nhân thân và những sự vật (xem Justinian’s Institutes, Quyển 1 và 2). Một nhân thân “là một chủ thể mà những hành vi của chủ thể đó có thể bị quy trách nhiệm”, trong khi đó một vật thì “không thể bị quy trách nhiệm”; cái trước được xác định rõ như một chủ thể sở hữu sự tự do và tự khởi; có khả năng hành động dựa theo các nguyên tắc, trong khi đó một vật không có sự tự do và tự khởi. Một con người hành động theo các xu hướng là một vật, như một vật đơn thuần bị sử dụng như phương tiện cho những mục đích của người khác.

Sự vật được phân biệt với nhân thân bằng tính thụ động của nó và không có tác nhân tự do, tự trị và đây là những đặc tính xác định tính chất của vật hay đối tượng được bàn kỹ trong triết học lý thuyết. Thế nhưng trong khi sự vật là có tính thụ động trong nghiên cứu của Kant về kinh nghiệm, thì ông thận trọng phân biệt giữa những phương cách khác nhau trong đó những sự vật và những đối tượng đối lập lại những sự tổng hợp tự khởi của giác tính con người. Những phương cách khác nhau này của vật tính có thể được nhận diện bằng những từ khác nhau trong tiếng Đức mà Kant sử dụng cho chúng - Ding, Gegenstand, Objekt - và những ngữ cảnh mà chúng xuất hiện.

Dingìà thuật ngữ Kant ít sử dụng nhất trong triết học phê phán, lý do là vì ông muốn phân biệt giữa triết học phê phán của ông với siêu hình học giáo điều của trường phái Wolff. Thuật ngữ Ding được Wolff và trường phái của ông sử dụng nhằm xác định vật tính siêu hình học; nó cho thấy rằng cái gì cũng có thể có, ngay cả khi nó không có thật. Những người theo thuyết Wolff hiếm khi, nếu không nói là chẳng bao giờ, sử dụng những thuật ngữ Objekt và Gegenstand được Kant ưa chuộng. Thế nên trong PPLTTT, Ding xuất hiện trong những ngữ cảnh liên quan đến vật tính siêu hình học, như khi bàn về sự khẳng định và sự phủ định siêu nghiệm (A 574/B 603). Ở đây trước hết Kant cho rằng sự khẳng định siêu nghiệm xác lập nên thực tại, và chỉ thông qua nó, những đối tượng mới được xem là có vật tính hay “Gegenstände etwas (Dinge) sind” [“những đối tượng là cái gì đó” (những sự vật/Dinge)]. Sự khẳng định siêu nghiệm cũng xác lập nên khả thể của sự phủ định, vì “tất cả những khái niệm phủ định đều là phái sinh” (PLTTT A 575/ B 603), và, hơn nữa, khả thể của mọi sự giới hạn, vì Kant xem sự giới hạn như là một hình thức của sự phủ định. Vì vậy Kant cho rằng ta cần phải có một cảm nhận khái quát hay “ý thể” về vật tính nói chung, hay omnitudo realitas [tất cả tính thực tại], để tri giác những đối tượng hữu hạn, xác định. Ông gọi khái niệm về vật tính không xác định này là “vật-tự-thân”, bằng việc sử dụng thuật ngữ Ding an sich [vật tự thân], khi đối lập với Gegenstand hay Objekt hay Objekt an sich [đối tượng tự thân].

Kant nhấn mạnh sự phân biệt giữa Ding và Gegenstand trong các định đề của tư duy thường nghiệm. Ở đây ông phân biệt giữa nhận thức về một sự tồn tại đã được xác định (Dasein) mà nó chỉ có thể được nhận biết như là một hiện tượng hay “sự tồn tại của những kết quả từ nguyên nhân đã cho phù hợp với quy luật nhân-quả” (PPLTTT A 227/B 279) với “tồn tại của những sự vật (bản thể) chưa được xác định [Dasein der Dinge (Substanzen)] ” (A 227/B 279) vốn không thể được nhận biết. Một lần nữa, Ding đồng nghĩa với bản thể siêu hình học và nó được phân biệt với “điều kiện [của những sự vật]... mà ta chỉ có thể biết từ những điều kiện khác được mang lại trong tri giác, theo các quy luật thường nghiệm của tính nhân quả” (A 227/B 280). Với thuật ngữ sau, Kant tập trung vào khái niệm về sự vật hay đối tượng chuyển từ Ding sang Gegenstand và Objekt.

Sự phân biệt của Kant giữa Gegenstand và Objekt là mấu chốt trong triết học siêu nghiệm, mặc dù ông chưa bao giờ bàn về chúng thành chủ đề một cách rõ ràng và hoàn toàn bị xóa bỏ trong bản dịch (tiếng Anh) của Kemp Smith về PPLTTT. Nó gồm yêu sách có tính cách tiên đề là “những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm nói chung cũng đồng thời là những điều kiện cho khả thể của những đối tượng [Gegenstände] của kinh nghiệm” (PPLTTT A 158/B 197), và mối quan hệ phức tạp này đưa đến sự phân biệt giữa khái niệm và trực quan. Gegenstände là những đối tượng của kinh nghiệm hay những hiện tượng phù hợp với những giới hạn của giác tính và trực quan; chúng có thể là những hiện tượng trong trực quan mà không “nhất thiết phải quan hệ với những chức năng của giác tính” (A 89/B 122), hay “những đối tượng của ý thức” “không có gì khác biệt với sự lĩnh hội chúng” (A 190/B 235). Khi những đối tượng [Gegenstände] của kinh nghiệm được tạo thành những đối tượng cho sự nhận thức, thì chúng trở thành Objekte. Nhận thức của giác tính “là ở trong mối quan hệ nhất định giữa những biểu tượng được cho với một đối tượng” [Objekt] với Objekt được mô tả là “trong khái niệm về đối tượng, cái đa tạp của một trực quan được cho được hợp nhất lại” [B 137], “Trực quan được cho” hay Gegenstand, vì thế tạo thành một Objekt dưới điều kiện của sự thống nhất của thông giác.

Những nghiên cứu khác nhau của Kant về đối tượng, do có nguy Cổ bị đánh giá chưa đúng mức về sự dị biệt nội tại của chúng, cần được tổ chức bằng nghiên cứu nhất quán về đối tượng. Một Objekt của nhận thức có thể nhận thức được bằng những khái niệm của giác tính đòi hỏi phải có một đối tượng của kinh nghiệm hay Gegenstand. Vì để có những đối tượng như thế đòi hỏi rằng phải có cái gì đó chứ không phải là không có gì, nên “cái gì đó” này hay vật tính - Ding - là không thể nhận thức được, mà chỉ được bàn như cái Ding an sich [vật-tự thân] siêu hình hay bản thể. Lối đọc này về đối tượng của Kant nhấn mạnh sự thân thuộc giữa PPLTTT với truyền thống bản thể học mà Kant đã gợi ra trong PPLTTT (A 247/B 303). Khi Kant lưu ý trong SHHĐL rằng “những bậc thầy về môn bản thể học”, mở đầu bằng những khái niệm “tồn tại” và “hư vô” thì họ đã quên rằng sự phân biệt này đã là một sự phân chia khái niệm về đối tượng nói chung” (tr. 218, tr. 46). Vì thế ông bắt đầu với đối tượng nói chung hay Ding, rồi được chia ra thành tồn tại và hư vô bằng sự khẳng định siêu nghiệm và sự phủ định siêu nghiệm. Ding lại được tiếp tục xác định rõ hon nữa như là một đối tượng của kinh nghiệm - Gegenstand - và sau cùng là một đối tượng cho nhận thức - Objekt -, vì thế tạo nên một phiên bản có tính phê phán đối với bản thể học truyền thống.

Cù Ngọc Phương dịch

Từ Điển Tâm Lý

ĐỐI TƯỢNG

[VI] ĐỐI TƯỢNG

[FR] Objet

[EN]

[VI] Một vật hay con người mà chủ thể nhằm tác động trong hành động, suy nghĩ hay cảm xúc. Đối tượng của tri giác và hành động là những vật thể hay con người với những thuộc tính hằng định, có tương quan nhất định với những vật thể khác, họp thành một thế giới chung quanh chủ thể tương đối ổn định, có cơ cấu nhất định. Cho nên thường phân biệt giữa chủ quan và khách quan, tức chủ thể và khách thể. Từ objet có thể dịch là vật thể hay khách thể, đối lập với sujet là chủ thể. Đối tượng của cảm xúc và tình cảm không rõ nét và ít tính hằng định, dễ biến dạng; trong phân tâm học, từ đối tượng, quan hệ đối tượng (relation objectale, không phải objective) là nói đến đối tượng về cảm xúc, mà đối với trẻ em chính là người mẹ.

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 entity

đối tượng

 subject /toán & tin/

chủ đề, đối tượng

 wideget /toán & tin/

công cụ, đối tượng

subject

chủ đề, đối tượng

 subobject /toán & tin/

đối tượng con

Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

object

đối tượng