TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

thượng đế

thượng đế

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Thiên Chúa

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant

Thần

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Thiên Đế

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Chúa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thần thánh

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đấng thần linh

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Đấng Tối Cao

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đấng Vô Biên

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Thiên

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Ông trời<BR>almighty ~ Thượng Đế toàn năng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Thiên Chúa toàn năng.<BR>creator ~ Thượng Đế sáng tạo<BR>fertility gods Thần của nhà nông

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thần có sức sinh sôi dồi dào

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Chúa Trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Đức Chúa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Chúa trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tạo hóa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ông Trời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Thần Linh

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

chúa Tròi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngọc hoàng thượng đé

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hiếm -s

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Götter trôi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ông tròi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngọc hoàng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thượng đế/thiên chúa

 
Từ điển triết học Kant

thượng đế/thiên chúa và kitô giáo

 
Từ điển triết học HEGEL

thiên chúa và kitô giáo

 
Từ điển triết học HEGEL
thượng đế

thượng đế

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thần

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thần thánh

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đấng thần linh.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
đi từ các nguyên tắc luân lý qua quy luật luân lý đến sự tự do. trong sự biện minh về các định đề về thượng đế

“phê phán lý tính thực hành”: xuất bản năm 1788

 
Từ điển triết học Kant

cuốn ppttth đi theo một phương pháp trình bày tổng hợp

 
Từ điển triết học Kant

đi từ các nguyên tắc luân lý qua quy luật luân lý đến sự tự do. trong sự biện minh về các định đề về thượng đế

 
Từ điển triết học Kant

tự do và tính bất tử

 
Từ điển triết học Kant

nó đưa ra một hứa hẹn được nói trong tời tựa thứ hai cho cuốn pptttt “tôi phải dẹp bỏ nhận thức

 
Từ điển triết học Kant

cuốn phê phán này là văn bản thứ hai trong bộ ba phê phán

 
Từ điển triết học Kant

là cuốn thứ hai trong ba tác phẩm thời kỳ chín muồi trong triết học luân lý của kant. trước nó là cuốn đặt cơ sở cho siêu hình học vê đức lý xuất bản năm 1785

 
Từ điển triết học Kant

sau nó là cuốn siêu hình học đức lý xuất bản năm 1797. như với cuốn pptttt

 
Từ điển triết học Kant

đi từ các nguyên tắc luân lý qua quy luật luân lý đến sự tự do. trong sự biện minh

 
Từ điển triết học Kant

các định đề

 
Từ điển triết học Kant

thượng đế

 
Từ điển triết học Kant

tự do

 
Từ điển triết học Kant

tính bất tử

 
Từ điển triết học Kant

Anh

thượng đế

God

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant

 deity

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

supreme being

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

shaddai

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

the infinite

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

creator god

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

god and christianity

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

thượng đế

Gott

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant

Himmelsfürst

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

VaterRhein

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Herrwerden

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Gottwesen

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Gottheit

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Unservater

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Allvater

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Allwissende

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

schopfen

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Herrgott

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Götter

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Himmelreich

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

gott und christentum

 
Từ điển triết học HEGEL
thượng đế

Gottheit

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Truyện Những giấc mơ của Einstein (Đức-Việt)

Diejenigen, die einer Religion anhangen, sehen in der Zeit einen Gottesbeweis.

Giáo sân thì cho thời gian là bằng chứng về Thượng đế.

Nichts könnte universal und dabei nicht göttlichen Ursprungs sein.

Không có gì thuộc về vũ trụ mà lại không xuất phát từ Thượng đế.

Truyện Những giấc mơ của Einstein (Anh-Việt)

Those of religious faith see time as the evidence for God.

Giáo sân thì cho thời gian là bằng chứng về Thượng đế.

Nothing could be universal and not be divine.

Không có gì thuộc về vũ trụ mà lại không xuất phát từ Thượng đế.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bei Gott schwören

thề, tuyên thệ, phát thệ; ♦

bẹi Gott!

ối trồi ơi!, ~

léider Gott es

đáng tiếc, thật là đang tiếc!;

großer Gott!

ơi! ối trời ơi!; ~

um Gott es willen!

1) trời ơi; 2) do tròi; ~

dem lieben Gott den Tag [die Tage] (áb) stehlen

ăn không ngôi rồi, nằm khàn, không làm lụng gì hết;

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

wie es Gott gefallt

theo ý Chúa

Gottes Wort

như trong Kinh Thánh

Gottes Sohn

Chúa Jesus

bei Gott schwören

thề có trời đất chứng giám

was Gott zusammengefügt hat, das soll der Mensch nicht scheiden

những gi Thiên Chúa đã kết hạp thì loài người không được phân ly (trích nghi thức hôn phối)

hilf dir selbst, so hilft dir Gott

hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp

Từ điển triết học HEGEL

Thượng Đế/Thiên Chúa và Kitô giáo [Đức: Gott und Christentum; Anh: God and Christianity]

Giống như hầu hết những người cùng thời, Hegel tuyên xưng đức tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế. Nhưng những khái niệm về NIEM TIN, sự HIỆN HỮU và Thượng Đế đều đáng ngờ:

1. Ở cấp độ TIN, Hegel tin vào thần tính ngôi vị của Nhà thờ Tin Lành. Nhưng ông không đơn giản chấp nhận học thuyết này mà không nỗ lực lĩnh hội và biện minh nó một cách hợp lý tính. Tuy nhiên, sự lĩnh hội và biện minh thuần lý về các HÌNH TƯỢNG của niềm tin không có nghĩa là để chúng bất biến như vậy. Nhận thức triết học biến các biểu tượng này thành những tư tưởng. Và khi làm điều ấy, các triết gia thường biến đổi nội dung của niềm tin, chẳng hạn biến Thiên Chúa ngôi vị của Kitô giáo thành một “Hữu thể tất yếu”. Các triết gia trung đại viện đến học thuyết về “chân lý kép”, tức chân lý của niềm tin và chân lý của lý tính, vốn không những không trùng khít nhau, mà còn xung đột nhau. Và một trong những mục đích của Hegel là vượt qua sự đối lập, giống như những sự đối lập khác, giữa sự giàu có của niềm tin truyền thống và sự nghèo nàn của lý tính triết học. Vì thế triết học của ông được dự định là có cùng một nội dung như Kitô giáo, nhưng khác về HÌNH THỨC.

2. Quan niệm về sự hiện hữu của Thượng Đế bộc lộ một số khó khăn. Một khó khăn là các thuật ngữ thường dùng để chỉ “tồn tại” và “hiện hữu” có khuynh hướng ám chỉ rằng Thượng Đế là một thực thể HỮU HẠN bên cạnh các thực thể khác, và cũng hiện hữu giống như cách mà các thực thể hữu hạn kia mà thôi. Khó khăn khác nữa là khi chúng ta nói về sự hiện hữu của sự vật nào đó, chúng ta thường hàm ý một sự tương phản với KHÁI NIỆM của nó: khái niệm về con sư tử là một chuyện, sự hiện hữu của nó là chuyện khác. Nhưng, Hegel lập luận, Thượng Đế không tách biệt với khái niệm về Thượng Đế, trong khi một con sư tử thì tách biệt với khái niệm về sư tử, vì Thượng Đế là VÔ HẠN chứ không phải hữu hạn.

3. Khó khăn khác trong việc gán sự hiện hữu cho Thượng Đế là: một niềm tin chẳng hạn như giáo thuyết Luther mang lại một quan niệm phong phú về Thượng Đế đồng thời cũng khẳng định sự hiện hữu của Ngài. (Ta có thể chia sẻ quan niệm này về Ngài trong khi vẫn hoài nghi hay phủ nhận sự hiện hữu của Ngài). Dù vậy, triết học có thể giả định một quan niệm như thế thì cũng chẳng khác gì giả định sự hiện hữu của Ngài. Nó hỏi “Thượng Đế là gì?” cũng như “Thượng Đế có hiện hữu không?”. Cùng lắm nó chỉ giả định được mẫu số chung bé nhất của mọi biểu tượng về Thượng Đế, rằng Ngài hay đó là (cái) TUYỆT ĐỐI, tức biểu tượng về Thượng Đế đã bị tước bỏ thuyết nhân hình mang tính hình tượng và biến thành hình thức của tư tưởng thuần túy. Do đó, ở Hegel, “Thượng Đế’ thường ngang bằng với “cái Tuyệt đối”, và ông áp dụng các luận cứ giống nhau cho cả hai khái niệm. Những LUẬN cứ CHỨNG MINH truyền thống về sự hiện hữu của Thượng Đế được cho là lấp đầy quan niệm của chúng ta về Thượng Đế, chứ không đơn giản là thiết lập sự hiện hữu của một sự vật nào đó mà chúng ta đã có một khái niệm rõ ràng về nó rồi. (Kant, trong PPNLPĐ, xem xét các chứng minh trong một ánh sáng tương tự).

Vì “Thượng Đế’, giống như “cái Tuyệt đối”, là sự biểu đạt toàn bộ nhưng trống rỗng, và vì thế, câu trả lời cho câu hỏi “Thượng Đế là gì?” (chẳng hạn “Thượng Đế là BẢN CHẤT”) chẳng gì hon là sự sẵn sàng sử dụng khái niệm vốn đã được đặt làm vị từ cho Thượng Đế (chẳng hạn, [như ví dụ trên thì đó là] khái niệm về bản chất), nên hầu như một nhà vô thần cũng có thể làm như thế: thuyết vô thần thực ra chỉ là việc hoàn toàn không có năng lực suy tưởng. (Schopenhauer, người tin rằng thực tại tối hậu là Ý CHÍ, và Nietzsche, người tin nó là ý chí-quyền lực, cả hai đều xem mình là nhà vô thần. Hegel ắt sẽ xem họ là người hữu thần luận, vốn tin một cách sai lầm và trống rỗng rằng Thượng Đế là ý chí hay là ý chí-quyền lực). Ngoài ra, ít nhất vẫn còn có hai sai lầm về thần học: (a) Người ta chỉ có thể áp dụng vào Thượng Đế, hay vào vũ trụ một tư tưởng tưong đối Sổ khai, chẳng hạn như TỒN TẠI hay bản chất, vốn chưa đạt đến các tư tưởng đã được nâng cao và thích đáng hon như Ý NIỆM tuyệt đối hay TINH THẦN tuyệt đối. (b) Người ta có thể định đề hóa một MỐI QUAN HỆ không thích đáng giữa Thượng Đế và thế giới. Khuyết điểm này có liên quan với sai lầm thứ nhất, ở chỗ xem xét Thượng Đế dựa vào một tư tưởng nhất định, hàm ý một loại hình liên hệ nhất định nào đó giữa Thượng Đế và thế giới. Chẳng hạn, nếu Thượng Đế là một TỒN TẠI NHÂT ĐỊNH (Daseiendes), vậy thì Ngài phải là gì đó khác với thế giới, và bị giới hạn bởi thế giới; còn nếu Ngài là một bản chất, thì thế giới phải là một VẺ NGOÀI (Schein). Chỉ khi Ngài được xem xét dựa vào ý niệm tuyệt đối hay tinh thần tuyệt đối thì Ngài mới có quan hệ với thế giới theo một cách thức thỏa đáng.

Thoạt nhìn, có lẽ Thượng Đế liên hệ với thế giới theo ba cách thay thế được cho nhau:

(1) Thượng Đế khác biệt với thế giới.

(2) Thượng Đế đồng nhất với thế giới, nhưng theo cách là: chỉ có thế giới là thực sự hiện hữu, còn Thượng Đế thì không. Đây là phiên bản thuyết phiếm thần mà Bayle gán cho Spinoza.

(3) Thượng Đế là đồng nhất với thế giới, nhưng theo nghĩa là chỉ Thượng Đế là thực sự hiện hữu, còn thế giới thì không. Đây là phiên bản thuyết phiếm thần mà Hegel gọi là Akosmismus (“thuyết vô vũ trụ”, tức “phủ nhận thế giới”) và xem đây mới là quan niệm thực sự của Spinoza. Dù Hegel thích (3) hơn (1) và (2), nhưng ông xem cả ba là không thích đáng: (1) là không thích đáng vì nó làm Thượng Đế trở nên hữu hạn giống như thế giới, và không mang lại sự giải thích tối hậu cho bất kỳ bên nào;

(2) không đủ vì rốt cục chỉ còn lại thế giới hữu hạn; và (3) không đủ vì nó không mang lại mô tả đầy đủ về vẻ ngoài của một thế giới hữu hạn, nhất là về bản thân CHỦ THỂ đang làm triết học.

Quan niệm của bản thân Hegel về mối quan hệ này (vốn có họ hàng với quan niệm của các nhà huyền học chẳng hạn như Böhme) là: Thiên Chúa là một tam vị nhất thể, gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Mối quan hệ của Ngài với thế giới không phải là đồng nhất hoàn toàn cũng không phải khác biệt hoàn toàn. Đúng hơn, thế giới Tự NHIÊN và thế giới tinh thần là các pha hay các MÔ-MEN của Thiên Chúa: Ngài (Chúa Cha) đạt đến ý thức trong giới tự nhiên (Chúa Con), rồi lên đến Tự-Ý THỨC trong tinh thần con người (Chúa Thánh thần, bao gồm ý thức và sự thờ phụng Thiên Chúa trong cộng đồng tôn giáo, và nhiều điều khác). Cả ba mô-men ấy đều nằm trong quan niệm của bản thân Tinh thần. Quan niệm này được trình bày dựa vào TÔN GIÁO trong THTG. Nhưng nó được trình bày dựa vào tư tưởng triết học trong toàn bộ hệ thống của Hegel, vì Chúa Cha là ý niệm lô-gíc, tức hệ thống khái niệm được trình bày trong Tô-gíc học, còn triết học tự nhiên và triết học tinh thần lần lượt trình bày Chúa Con và Chúa Thánh thần. Theo quan niệm của Hegel, sự đồng nhất-trong-sự khác biệt này của Thiên Chúa và thế giới được biểu trưng bằng sự hiện thân xuống làm người và cái CHẾT của Đấng Christ. (Trong Hegel, “Con của Thiên Chúa” có ba nghĩa: (1) Đức Jesus lịch sử; (2) thế giới tự nhiên; (3) “người con đời đời” nội tại trong Chúa Cha, cái logos của Phúc âm thánh Gio-an [John], (2) và (3) chứa đựng tính khác và sự dị-biệt hóa, nhưng (1) thể hiện sự tái thống nhất và tái hòa giải).

Theo quan niệm này, sự hiện hữu của Thượng Đế không đòi hỏi sự chứng minh theo nghĩa truyền thống, vì Thượng Đế là cấu trúc lô-gíc của thế giới và là bản thân thế giới. Vì vậy Hegel xem những sự chứng minh ấy là việc tường thuật lại “sự nâng mình lên” của con người (Erhebung/ Anh: evelation) đến Thượng Đế, một sự biểu đạt ngụ ý một cách nước đôi cả việc con người đang dần trở nên có ý thức về Thượng Đế lẫn đang trở thành (giống như) Thượng Đế. Ngụ ý rằng con người trở thành Thượng Đế là mặc nhiên trong quan niệm rằng sự phát triển của tinh thần con người là việc Thượng Đế đang tự ý thức chính mình, và Hegel bác bỏ quan niệm rằng con người là hữu hạn một cách không thể tránh được, tưong phản với tính vô hạn của Thượng Đế. Vì thế Hegel cũng bác bỏ quan niệm Thượng Đế là tuyệt đối bất khả tri.

Tư tưởng tôn giáo của Hegel làm nảy sinh vài câu hỏi. Một câu hỏi gây chia rẽ các môn đồ của ông là: ông là một nhà hữu thần, phiếm thần hay vô thần? Một số môn đồ, chẳng hạn Göschei (các nhà Hegel “cánh hữu”), tin rằng ông là một tín hữu chính thống, trong khi số khác, chẳng hạn Strauss (các nhà Hegel “cánh tả”), lại đưa ra quan niệm ngược lại. Câu hỏi này sinh ra ba câu hỏi nhỏ: (1) Hệ thống triết học của Hegel, dù nó phản chiếu chính xác (trong một hình thức khác) cấu trúc của Kitô giáo, có phải là một sự phiên dịch chính xác cho Kitô giáo, đến mức ai chấp nhận hệ thống này đều có thể được cho là một Kitô hữu ipso facto (“tự bản thân sự việc’) không? (2) Tiệu sự phiên dịch của Hegel có bóp méo nội dung của Kitô giáo (chẳng hạn, trong việc đồng hóa con người với Thượng Đế) nhiều đến mức không thể là một phiên bản của Kitô giáo? (3) Phải chăng những lời tuyên xưng đức tin thường xuyên của Hegel dành cho Kitô giáo có đứng cao hon những sự không đầy đủ trong việc ông phiên dịch triết học cho nó không? Sự phức hợp của những khái niệm như “niềm tin”, “sự hiện hữu”, “Thượng Để’ và “Kitô giáo” không đưa ra những câu trả lời dứt khoát cho ba câu hỏi này. Nhưng niềm tin của Hegel rằng các đối lập chuyển hóa vào nhau khi chúng đạt đến giai đoạn cao nhất hàm ý rằng nếu ông có đạt đến thuyết vô thần chăng nữa, thì đó là ông đạt đến bằng cách kéo căng thuyết hữu thần đến những giới hạn lô-gíc của nó.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Từ điển triết học Kant

Thượng Đế/Thiên Chúa [Đức: Gott; Anh: God]

Xem thêm: Loại suy/Tương tự, Nhà thờ, Lòng tin, Định đề, Biện thần luận, Thần học,

Cách hiểu triết học của Kant về Thượng đế vẫn nhất quán xuyên suốt sự nghiệp học thuật của ông. Cách hiểu này được phát biểu rõ trong câu cuối quyển HHTĐ, ở đó ông tổng kết một sự xét lại có phê phán về những luận cứ chứng minh cho sự hiện hữu của Thượng đế bằng sự phủ nhận: “Trong khi ta tin rằng Thượng đế hiện hữu là tuyệt đối tất yếu; [thì] việc chứng minh sự hiện hữu của Ngài lại không tất yếu” (tr. 163, tr. 201). Cảm tưởng này là dư âm của nhận định được Kant nêu lên trong Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai của PPLTTT, ở đó ông thừa nhận rằng trong các vấn đề về Thượng đế, sự tự do và sự bất tử, ông đành “phải dẹp bỏ nhận thức [sai lầm] để nhường chỗ cho lòng tin” (PPLTTT B 30). Các trước tác của ông về vấn đề Thượng đế đều hoàn toàn thấm nhuần sự căng bức giữa lòng tin vào Thượng đế và tri thức chứng minh về sự hiện hữu của ngài. Các trước tác này có thể được chia thành năm nhóm riêng biệt.

Trong nhóm thứ nhất, gồm các trước tác thần học: HHTĐ, “Ý thể của lý tính thuần tuý” trong PPLTTT và THTN, Kant làm xói mòn những luận cứ chứng minh bản thể học, vũ trụ học và thần học vật lý hay mục đích luận về sự hiện hữu của Thượng đế của môn thần học triết học truyền thống. Trong các văn bản này, ông đối lập các kỳ vọng với tri thức tư biện về Thượng đế của “những kẻ mơ mộng xây dựng lâu đài” của lý tính (GM tr. 324, tr. 329) như Christian Wolff, người hệ thống hóa thần học triết học. Trong nhóm thứ hai, gồm cuốn GM, ĐHTD và TG, ông điều chỉnh sự cân bằng bằng cách đặt đối lập các kỳ vọng với kinh nghiệm trực quan trực tiếp về Thượng đế vốn vẫn còn được duy trì nổi những người cuồng tín về lòng tin như: Swedenborg, Hamann và Jacobi. Trong khi các triết gia tin rằng những luận cứ chứng minh của họ đã mang lại cho họ tri thức về Thượng đế, thì những người cuồng tín lại tin rằng những sự loại suy nhân hình luận thô thiển mang lại cho họ một kinh nghiệm huyền học về tính thần thánh. Từ thế đứng của sự phê phán của mình về thần học triết học, Kant giới hạn nhận thức về Thượng đế vào sự loại suy và sự sử dụng nó như một ý niệm điều hành; sự hạn chế này cùng với sự phê phán của ông về kinh nghiệm huyền học về Thượng đế được kết hợp lại để xác lập những thông số của nhóm trước tác thứ ba, gồm PPLTTT, TG và trên hết là PPLTTH. Nhóm này xác định vị trí đúng của Thượng đế là nằm trong kinh nghiệm thực hành, và khảo sát nghĩa luân lý về Thượng đế như một “định đề của lý tính thuần tuý” (PPLTTH tr. 133, tr. 137 và tiếp) cần thiết để đảm bảo sự tôn kính đối với quy luật. Nhóm các trước tác thứ tư, chủ yếu là cuốn TG, phân tích thiết chế của nhà thờ, trong khi một nhóm các trước tác thứ năm và khá mổ hồ, gồm PPNLPĐ, LSPQ, HBVC, và BTL, tập trung vào vai trò của Thượng đế trong lịch sử, với sự quy chiếu đặc biệt đến biện thần luận và sự thiên hựu.

Trong năm nhóm trước tác này, những nhóm có ảnh hưởng nhất là nhóm thứ nhất và thứ ba. Mối quan hệ giữa sự phê phán thần học và luận cứ ủng hộ cho lòng tin thực hành đã kích thích nhiều thế hệ của những nhà lý giải. Thêm vào đó, rất nhiều công trình đã được thực hiện dựa trên chi tiết của sự phê phán về ba sự chứng minh thần học/triết học cho sự hiện hữu của Thượng đế. Việc đột ngột gia tăng gần đây mối quan tâm đến triết học của Kant về lịch sử càng làm tăng thêm sự nhạy cảm xoay quanh chủ đề về thiên hựu, và quan hệ giữa quan niệm này về Thượng đế với sự phê phán về thần học và lòng tin luân lý. Tuy nhiên, một nghiên cứu toàn diện về toàn bộ quan niệm của Kant về Thượng đế, một nghiên cứu hẳn sẽ phải bao quát cả năm nhóm văn bản ấy, vẫn còn chưa được thực hiện.

Nguyễn Thị Thu Hà dịch

“Phê phán Lý tính Thực hành”: Xuất bản năm 1788, cuốn Phê phán này là văn bản thứ hai trong bộ ba Phê phán và là cuốn thứ hai trong ba tác phẩm thời kỳ chín muồi trong triết học luân lý của Kant. Trước nó là cuốn Đặt cơ sở cho Siêu hình học vê Đức lý xuất bản năm 1785 và sau nó là cuốn Siêu hình học Đức lý xuất bản năm 1797. Như với cuốn PPTTTT, cuốn PPTTTH đi theo một phương pháp trình bày tổng hợp, đi từ các nguyên tắc luân lý qua quy luật luân lý đến sự tự do. Trong sự biện minh về các định đề về Thượng đế, Tự do và tính Bất tử, nó đưa ra một hứa hẹn được nói trong Tời tựa thứ hai cho cuốn PPTTTT “tôi phải dẹp bỏ nhận thức [sai lầm] đi để dành chỗ cho lòng tin” (PPTTTT B30). Cuốn này đi theo sự tổ chức của văn bản phê phán đã được Kant xác lập trong cuốn PPTTTT, với một “Học thuyết về các Yếu tố của Tý tính thuần túy thực hành”, theo sau bằng một “Học thuyết về Phương pháp của lý tính thuần túy thực hành”. Như trong cuốn PPLTTT, “Học thuyết về các Yếu tố” được phân thành một phân tích pháp và một biện chứng pháp. Cái đầu bắt đầu bằng việc định nghĩa về một nguyên tắc thực hành như một “sự quy định phổ biến đối với ý chí”, phân biệt như các châm ngôn, nếu có giá trị hiệu lực chủ quan, và như các quy luật nếu có giá trị hiệu lực khách quan.

Chương I [Phần I, Quyển I] của cuốn PPLTTH bắt đầu bằng 8 định lý xác lập bản tính của các nguyên tắc thực hành, khách quan bằng một sự luận chiến chống các nguyên tắc của phán đoán luân lý - tức, hạnh phúc, cảm xúc luân lý, sự hoàn hảo - vốn được các triết gia trước Kant ủng hộ. Sau khi xác lập cơ sở cho quy luật luân lý trong sự tự do, và mối quan hệ của nó với tính tự trị và mệnh lệnh nhất quyết, Kant tiến hành một diễn dịch về các nguyên tắc dựa vào tính nhân quả của quy luật luân lý “trong một thế giới khả niệm (tính nhân quả bằng Tự do)” (tr. 49, tr. 50). Trên cơ sở này, Kant trình bày một “bảng các phạm trù của sự tự do”, bảng này cũng được tổ chức dựa theo sơ đồ quen thuộc gồm Chất, Lượng, Tương quan và Tình thái (PPLTTT, tr. 66, tr. 68-69). Theo sau phần này là một mục thú vị bàn về “Điển hình luận của năng lực phán đoán thuần túy thực hành”, mục này tương ứng với mục bàn về thuyết niệm thức trong PPLTTT, rồi ông tiếp tục trình bày chương then chốt là “Về những động cơ của lý tính thuần túy thực hành”. Ở đây, Kant bàn về cảm xúc tôn kính quy luật luân lý như một phương cách tự-quy định của ý chí, và đưa ra sự phân biệt quan trọng giữa hành động dựa theo bổn phận với hành động xuất phát từ bổn phận, xem cái sau như hành động với sự tôn kính quy luật.

Phần “Biện chứng pháp của lý tính thuần túy thực hành” tập trung vào những định nghĩa nghịch lý về sự thiện tối cao, được trình bày dựa theo sự đối lập giữa phái Epicure và phái Khắc kỷ. Điều này được biến thành những lập trường đối lập về việc liệu lòng ham muốn hạnh phúc có phải là động cơ cho các châm ngôn của đức hạnh hay không, hoặc các châm ngôn của đức hạnh có phải là nguyên nhân có hiệu lực cho hạnh phúc (PPLTTH, tr. 114, 117-118). Kant tách xa khỏi sự đối lập này bằng cách tuyên bố rằng cả hai nguyên tắc đều giả định “sự hiện hữu trong thế giới cảm tính là cách thức hiện hữu duy nhất của một hữu thể có lý tính” (tr. 114, 119). Sau đó, điều này dẫn đến mục “Về các định đề của lý tính thuần túy thực hành nói chung”, phần này nảy sinh từ sự hiện hữu của quy luật luân lý: các định đề gồm tính bất tử (cung cấp sự kéo dài [sự sống] cần thiết cho việc thực hiện trọn vẹn quy luật luân lý), sự tự do (đáp ứng các điều kiện cho sự độc lập với tính cảm giác và sự quy định trí tuệ của ý chí), và Thượng đế (như điều kiện cần cho một thế giới khả niệm và sự Thiện-tối cao) (tr. 132, tr. 137). Sau đó, các định đề được cho là thỏa mãn trên phưong diện thực hành các đòi hỏi của lý tính mà sự mở rộng tư biện của nó đã bị “Biện chứng pháp siêu nghiệm” của cuốn PPLTTT hạn chế nghiêm ngặt. Văn bản này được hoàn tất trong học thuyết về phưong pháp bằng một số bình luận về sự mở rộng ảnh hưởng của lý tính thực hành, hay “biến lý tính thực hành khách quan thành lý tính thực hành chủ quan” (tr. 151, tr. 155).

Từ rất nhiều phê phán và bình giải về PPTTTH, tôi chọn ra một đoạn văn cực kỳ có tính gợi ý và rất có sức thuyết phục từ cuốn The Gay Science [Khoa học Vui tươi] của Nietzsche:

Và, bạn tôi ổi, lúc này đừng nói với tôi về Mệnh lệnh nhất quyết! - Chữ này cù vào tai tôi, và tôi phải bật cười to, dẫu có mặt một người nghiêm chỉnh như bạn: [bởi] qua đó tôi nhớ đến lão già Kant, người đã - cũng lại là một điều rất nực cười nữa! - giành được “vật tự thân” bằng mưu ma chước quỷ, và như một hình phạt cho điều ấy, “mệnh lệnh nhất quyết” đã rón rén đi vào trong trái tim lão, khiến lão quay trở lại với “Thượng đê”, “Tinh hồn”, “Tự do” và “tính Bất tử”, giống như một con cáo đi lạc trở lại vào cái cũi của mình: - dẫu nó vốn đã có đủ sức mạnh và sự tinh khôn để phá tung cái cũi ấy!” (Nietzsche, 1882 )

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Himmelreich /n -(e)s (tôn giáo)/

chúa Tròi, thượng đế, ngọc hoàng thượng đé; (nghĩa bóng) thiên đường, thiên đàng, nát bàn, niết bàn, chôn cực lạc.

Gottheit /f -en/

thượng đế, thần, thần thánh, đấng thần linh.

Gott /m -es u/

hiếm -s, Götter trôi, chúa, chúa tròi, ông tròi, thượng đế, thiên đế, ngọc hoàng, thần, đấng thần linh, thần thánh; zu - béten lạy trời lạy phật; Gott lästern báng bổ, chửi rủa, lăng mạ; au/ - báuen hi vọng ỏ trôi; bei Gott schwören thề, tuyên thệ, phát thệ; ♦ bẹi Gott! ối trồi ơi!, Gott sei Dan k! may quá! may mắn thay!; léider Gott es đáng tiếc, thật là đang tiếc!; großer Gott! ơi! ối trời ơi!; Gott bewahre! lạy trôi đùng, mong sao đùng; um Gott es willen! 1) trời ơi; 2) do tròi; Gott weiß! có mà trời biết!; dem lieben Gott den Tag [die Tage] (áb) stehlen ăn không ngôi rồi, nằm khàn, không làm lụng gì hết; den lieben - einen guten Mann sein lassen không nghĩ về tương lai, không can tâm về gì;

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Thiên Chúa,Thượng đế,Thần Linh

[VI] Thiên Chúa; Thượng đế; Thần Linh

[DE] Gott; Götter

[EN]

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Himmelsfürst /der (Christi. Rel.)/

Thượng đế (Gott);

VaterRhein /(dichter.)/

(o Pl ) (Rel ) Chúa; Thượng đế;

Herrwerden /vượt qua một' khó khăn; nicht mehr Herr seiner Sinne sein/

(christl Rel ) Chúa Trời; Thượng đế;

Gottwesen /das/

Thượng đế; Chúa trời;

Gottheit /die; -, -en/

(o PL; nur mit bestimmtem Art ) (geh ) Thượng đế; thần thánh; đấng thần linh;

Gott /[got], der; -es (selten in festen Wen dungen -s), Götter/

(o PL; o Art außer mit attributiver Bestimmung) Trời; Chúa trời; Thượng đế; Đức Chúa;

theo ý Chúa : wie es Gott gefallt như trong Kinh Thánh : Gottes Wort Chúa Jesus : Gottes Sohn thề có trời đất chứng giám : bei Gott schwören những gi Thiên Chúa đã kết hạp thì loài người không được phân ly (trích nghi thức hôn phối) : was Gott zusammengefügt hat, das soll der Mensch nicht scheiden hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ giúp : hilf dir selbst, so hilft dir Gott

Unservater /das; -s, - (landsch, bes. Schweiz.)/

Thượng Đế (Vaterunser);

Allvater /der; -s (meist ohne Art.) (Myth., Rel.)/

Chúa; Thượng Đế (là đấng sáng tạo muôn loài);

Allwissende /der; -n/

Thượng Đế; Chúa trời (Gott);

schopfen /(sw. V.; hat) (geh.)/

(o PL) Thượng Đế; tạo hóa (là Đấng sáng tạo mọi vật);

Herrgott /der; -s/

(fam ) Thượng Đế; Chúa Trời; ông Trời (Gott);

Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

thượng đế

creator god

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

supreme being

Thượng Đế

shaddai

Đấng Tối Cao, Thượng Đế

the infinite

Đấng Vô Biên, Thượng Đế

God

Thần, Thiên Chúa, Thượng Đế, Thiên, Thiên Đế, Ông trời< BR> almighty ~ Thượng Đế toàn năng, Thiên Chúa toàn năng.< BR> creator ~ Thượng Đế sáng tạo< BR> fertility gods Thần của nhà nông, thần có sức sinh sôi dồi dào [những vị thần mà một số dân tộc thuộc xã hội

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 deity /xây dựng/

thượng đế