TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

böse

m

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

f người tức giận

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

m qủi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

qủi sứ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

điều ác

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

điều xấu

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tai họa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tai nạn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

những lời nói ấy không có ý xấu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tức giận

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

giận dữ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cáu kỉnh

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hư

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

không ngoan ngoãn

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

không vâng lời

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

vô lễ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

bị viêm tấy

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

rất

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quá

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lắm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cực kỳ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đặc biệt

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

vô cùng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ác

 
Từ điển triết học Kant

Anh

böse

evil

 
Từ điển triết học Kant

Đức

böse

Böse

 
Metzler Lexikon Philosophie
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant

das

 
Metzler Lexikon Philosophie

übel

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nichts Böses ahnen

không đoán trước được tai họa xảy ra.

bös[e] sein

cảm thấy tức giận

jmdn. bös[e] anschauen

nhìn ai với vẻ tức giận

auf jmdn. böse sein

giận ai.

du bist ein böses Kind

con đúng là một đứa trẻ hư.

einen bösen Finger haben

có một ngón tay bị viêm tấy.

sich böse irren

nhầm lẫn một cách tai hại.

Từ điển triết học Kant

Ác (cái) [Hy Lạp: kakon; Latinh: malum; Đức: Böse, Übel; Anh: evil]

Xem thêm: Tâm thế, Tự do, Thiện (sự)/Tốt (cái), Châm ngôn, Ý chí,

Bàn luận của Kant về cái ác thừa hưởng một truyền thống tôn giáo và triết học phức tạp và lâu dài; nếu không biết đến truyền thống ấy, ắt nhiều sự phân biệt và nhấn mạnh có phê phán của ông hầu như không thể hiểu được. Truyền thống này, - kết hợp những ý niệm triết học Do Thái giáo, Kitô giáo và Hy Lạp, liên quan trước hết đến a) vị trí và b) nguồn gốc hay nguyên nhân của cái ác. về vị trí, cái ác được đặt cố định trong một sự đối lập nhị nguyên với cái thiện: cái thiện được quan niệm về mặt triết học như đức hạnh hay sự tuyệt hảo, hoặc về mặt tôn giáo như sự công chính hay sự kính sợ Thượng đế. Bản tính của cái thiện đến lượt nó lại được quan niệm đa dạng, dựa vào ý niệm về cái thiện như ý chí của Thượng đế, hay như cuộc sống tốt đẹp hay sung sướng. Định nghĩa về cái thiện đã góp phần định nghĩa về cái ác. Nếu cái thiện được xem là một ý niệm như nổi Platon, thì liệu có buộc phải xem cái ác cũng là một ý niệm, hay nó được đồng nhất với cái đối lập với ý niệm, tức là, với vật chất, hoặc nó là một nguyên lý (tồn tại) độc lập, xung đột với cái thiện? Platon lập luận trong nhiều chỗ khác nhau cho mỗi lập trường ấy, như thực tế Kant sau này đã làm. Tưong tự, quan niệm về khởi nguồn thiêng liêng của cái thiện cũng nảy sinh những vấn đề về địa vị của cái ác; liệu nó, giống như cái thiện, cũng có nguồn gốc từ Thượng đế, hay từ một địch thủ của Thượng đế, hay nó chỉ là một ảo tượng được sinh ra bởi sự thiếu thức nhận của con người về những cách thức của Thượng đế? Các nghiên cứu về cái ác của Aristoteles và Epicur lảng tránh các câu hỏi ấy. Aristoteles xem cái ác như một sự đi lệch thái quá khỏi cái trung dung; còn Epicur xem nó như bất kỳ cái gì gây ra đau khổ, nhưng chính những lập trường ấy đã để lại nhiều vấn đề cho hậu thế.

Định nghĩa về cái ác còn bị làm phức tạp hon bởi những sự khác biệt về tiêu điểm riêng trong những sự bàn luận về cái ác. Liệu cái ác có nên được xem xét một cách siêu nhiên, quy chiếu đến thần học về cái ác, hoặc một cách tự nhiên quy chiếu đến những sự kiện ác trong thế giới, hoặc thậm chí một cách tâm lý học, quy chiếu đến những tâm thế và hành động ác của con người? Hầu hết các tác giả đều nối kết cả ba phưong diện ấy, đáng chú ý nhất là Platon và phái Khắc kỷ trong triết học, tác giả của Sách của Job trong truyền thống Do Thái giáo, và những tác giả của kinh điển Kitô giáo. Những nhà Kitô giáo ngày càng nhấn mạnh kích thước tâm lý học của cái ác - một sự nhấn mạnh được rút ra từ học thuyết tự nhiên và thần học về tội tổ tông - và rồi lại nhấn mạnh đến vai trò của ý chí trên lý tính. Sự định hướng này đã đạt đến apogee [cực điểm] thần học của nó trong những trước tác của Augustinus vốn đóng vai trò trung tâm trong sự phản tư Kitô giáo về ý chí thiện và ác về sau (xem Augustinus, 1960, Quyển VII). Tư biện Kitô giáo trung đại về cái ác có thể được chia khái quát thành sự nhấn mạnh vào cái tự nhiên/siêu nhiên của Aquinas; và nặng hon về hướng siêu nhiên/ý chí luận theo phái Augustinus như Bonaventura, và rất lâu sau này là Luther.

Tiêu điểm bàn luận của Kant thay đổi vào nhiều giai đoạn khác nhau trong sự nghiệp của ông, mặc dù quan tâm của ông về mối quan hệ giữa cái ác với ý chí của con người vẫn giữ nguyên. Trong Mệnh đề IX cuốn NTĐT, chẳng hạn, ông đi từ một bàn luận thần học về sự cùng-tồn tại của cái thiện và cái ác trong sự sáng tạo hoàn hảo nhất của Thượng đế đến một nguyên nhân học (aetiology) về cái ác, một học thuyết tìm kiếm nguồn gốc của nó không ở Thượng đế mà trong “một nguyên tắc bên trong” của sự “tự-quy định” đặc thù của con người. Nguyên tắc này, sau này sẽ trở nên rõ ràng, không giống nguyên tắc mà nhà duy lý Wolff đã lập luận, tức nguyên tắc dựa trên tri thức có khiếm khuyết của ta về cái thiện, mà là một nguyên tắc về tính ác tận căn (radically evil principle), cố hữu trong ý chí con người. Dựa theo sự phân biệt trong NTĐT, cái ác của con người là một cái ác tiêu cực của khuyết tật (malum defectus) không phải của lý tính mà là của ý chí; nó không phải là một cái ác tích cực của sự thiếu vắng (malum privationis); cái trước là một sự phủ định cái thiện, trong khi cái sau đưa ra những căn cứ thực định để thủ tiêu cái thiện.

Vào thời điểm của các trước tác chín chắn của ông, Kant đã tập trung nghiên cứu về cái ác hầu như chuyên biệt vào vấn đề ý chí của con người. Trong khi ông tỏ ra quen thuộc với những lập luận ủng hộ và chống lại tính tưong hợp giữa sự hiện hữu của Thượng đế với cái ác trong thế giới, ông phát biểu rõ trong BTL rằng câu hỏi về cái ác được đặt ra theo cách này thì sẽ không thể xử lý được bằng nhận thức. Tuy nhiên, điều mà nhận thức có thể xử lý là cái ác có thể biện biệt được trong ý chí con người, và Kant đã xem xét điều này trong PPLTTH và TG.

Trong bối cảnh bàn luận về những đối tượng của lý tính thực hành trong PPLTTH, Kant phát triển một sự phân biệt giữa hai hình thức của cái ác. Những đối tượng khả hữu duy nhất của lý tính thực hành là cái thiện và cái ác, tức những thuật ngữ mà Kant nói là đã được sử dụng để dịch hai chữ Latinh: bonum và malum. Rồi ông chỉ ra rằng “tiếng Đức có may mắn là sở hữu các cách diễn đạt” [PPLTTH, tr. 59 [A 104] cho phép đưa ra một sự phân biệt giữa hai hình thức của cái thiện và cái ác. Kant dịch bonum vừa như das Gute (cái thiện/the good) vừa như das Wohl (cái tốt/well-being); tưong tự, ông dịch malum như das Böse (cái ác/evil) và das Übel (cái xấu/bad). Sự đối lập giữa cái tốt và cái xấu quy chiếu đến “cảm năng và đến tình cảm vui sướng hay không-vui sướng do nó tạo ra”. Vì thế, nó lặp lại sự xếp ngang hàng cái thiện và cái ác với sự vui sướng và đau khổ của Epicur, trong khi Kant phân biệt sự vui sướng và đau khổ với cái thiện và cái ác đích thực. Thiện và Ác đích thực không quy chiếu đến “trạng thái cảm tính của con người”, trái lại, biểu thị “một mối quan hệ với ý chí”, do đó, “chỉ có phương thức hành động..., chỉ có châm ngôn của ý chí mới có thể được gọi là thiện hay ác chứ thiện và ác không phải là một sự vật” (PPLTTH, tr. 60 [A 106]).

Việc định vị cái ác bên trong những châm ngôn của ý chí được tiếp tục khảo sát trong TG, nơi Kant phát triển luận điểm về cái ác tận căn (radical evil). Nguồn gốc của cái ác không nằm trong một đối tượng quy định ý chí, cũng không nằm trong một xu hướng hay xung lực tự nhiên, mà chỉ nằm trong “một quy tắc được ý chí tạo ra để sử dụng sự tự do của mình, tức là, trong một châm ngôn” (TG, tr. 21, tr. 17). Lý do cho việc lựa chọn giữa một châm ngôn thiện hoặc ác không thể được tìm thấy trong kinh nghiệm; nó là một hành vi tự do không đặt cơ sở trên những xu hướng cảm tính lẫn trên một châm ngôn nào khác của ý chí. Con người lựa chọn những châm ngôn quy định ý chí dựa theo những động cơ của quy luật luân lý hoặc của những bản tính cảm tính của họ. Sự phân biệt giữa một ý chí thiện và một ý chí ác phụ thuộc vào việc “cái nào trong hai động cơ [được lấy làm] điều kiện cho cái kia” (TG, tr. 36, tr. 31). Kant tiếp tục nói rằng tình trạng lựa chọn gay go này là không thể tránh được bởi đặc tính căn nguyên của cái ác, vốn được mô tả như một “thiên hướng tự nhiên, không thể nhổ tận gốc được của những năng lực của con người” (TG, tr. 37, tr. 32). Tuy nhiên, trong khi bản tính người thì yếu đuối, nó không độc ác - nó không biến bản thân cái ác thành một động cơ của ý chí; đúng hơn, bản tính con người thiếu sức mạnh để đi theo những nguyên tắc và sự biện biệt để phân biệt các động cơ. Tuy vậy, do bởi cùng sự tự do đã dẫn đến malum defectus [sự khuyết tật ác] của cái ác căn nguyên, thì cũng chính sự tự do ấy cho phép con người có thể vượt qua, - tuy không nhổ tận gốc -, thiên hướng ưa thích những động cơ của những bản tính cảm tính của họ hơn quy luật luân lý. Vì vậy, trong khi những thiên hướng đối với cái thiện và với cái ác đấu tranh với nhau để định hướng những châm ngôn của ý chí, thì “hạt mầm của sự thiện [bị ngăn cản để] không phát triển theo cách bình thường”, mặc dù điều này không ngăn cản ý chí được đào luyện và sở hữu một lịch sử. Điều này không đề nghị một cái trung dung tựa theo kiểu Aristoteles giữa cái thiện và cái ác - Kant công khai bác bỏ điều này trong một chú thích của quyển TG trang 39, 34 - trái lại, cho rằng cái thiện và cái ác liên tục đấu tranh với nhau để giành ưu thế (TG, tr. 82, tr. 77).

Khái niệm về cái ác tận căn của Kant là một ví dụ về một maỉum defectus, chứ không phải về một maỉum privationis: nó phủ nhận cái thiện hay quy luật luân lý làm động cơ cho các châm ngôn của ý chí, nhưng nó không thay thế cái thiện bằng một động cơ thiên về châm ngôn ác. Khái niệm này về cái ác đã cho phép Kant khẳng định khả thể của một lịch sử tiến bộ của con người, trong đó cái thiện được thành tựu thông qua việc đào luyện ý chí. Những sự tinh tế của lập trường này đã bị nhiều nhà phê bình ông không nhận ra; họ xem học thuyết của ông về cái ác tận căn là để bào chữa cho sự tự do con người và vì thế, nói theo từ ngữ của Goethe, “đã bôi bẩn bộ áo triết học của ông”. Tuy nhiên, phiên bản của Kant về mối quan hệ giữa tự do và cái ác đã truyền cảm hứng cho nhiều trầm tư triết học lớn của thế kỷ XIX về cái ác, nổi bật là Triết học Pháp quyển của Hegel (1821, §§139 - 140), Về Tự do con người của Schelling (1809), Khái niệm về Âu lo của Kierkegaard (1844), Phả hệ học của Đức lý của Nietzsche (1887). Dưới ánh sáng của những sự kiện chính trị thế kỷ XX, quan niệm của Kant về cái ác tận căn như một malum defectus đối với nhiều nhà phê bình là có vẻ không đủ. Cuộc tàn sát người Do thái trong Thế chiến II được nhiều tác giả xem như một malum privationis độc ác chứa đựng sự lựa chọn một nguyên tắc ác; những người khác, nổi bật là Hannah Arendt (1964), đã lên tiếng theo một hướng có nhiều tính chất Kant hơn về “tính tầm thường của cái ác” nảy sinh từ một ý chí được thấm nhuần không bởi những động cơ độc ác hay cảm tính, mà từ một sự phục tùng không phản tỉnh và có tính quan liêu đối với “nghĩa vụ” [trong chủ nghĩa quốc xã].

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

böse /['bo.zaj (Adj.): 1. tồi tệ, độc ác, bất lương (verwerflich); ein böser Mensch: một con người độc ác; das Böse in ihm hat gesiegt; cái ác trong con người hắn đã thắng; Schneewittchen hatte eine böse Stiefmutter: nàng Bạch Tuyết có một bà mẹ kế độc ác. 2. xấu, tồi, dở (schlecht, schlimm, Übel); eine böse Krankheit: một căn bệnh hiểm nghèo; die Worte waren nicht bös[e] gemeint/

những lời nói ấy không có ý xấu;

nichts Böses ahnen : không đoán trước được tai họa xảy ra.

böse /['bo.zaj (Adj.): 1. tồi tệ, độc ác, bất lương (verwerflich); ein böser Mensch: một con người độc ác; das Böse in ihm hat gesiegt; cái ác trong con người hắn đã thắng; Schneewittchen hatte eine böse Stiefmutter: nàng Bạch Tuyết có một bà mẹ kế độc ác. 2. xấu, tồi, dở (schlecht, schlimm, Übel); eine böse Krankheit: một căn bệnh hiểm nghèo; die Worte waren nicht bös[e] gemeint/

(ugs ) tức giận; giận dữ; cáu kỉnh (ärgerlich, zornig, wütend);

bös[e] sein : cảm thấy tức giận jmdn. bös[e] anschauen : nhìn ai với vẻ tức giận auf jmdn. böse sein : giận ai.

böse /['bo.zaj (Adj.): 1. tồi tệ, độc ác, bất lương (verwerflich); ein böser Mensch: một con người độc ác; das Böse in ihm hat gesiegt; cái ác trong con người hắn đã thắng; Schneewittchen hatte eine böse Stiefmutter: nàng Bạch Tuyết có một bà mẹ kế độc ác. 2. xấu, tồi, dở (schlecht, schlimm, Übel); eine böse Krankheit: một căn bệnh hiểm nghèo; die Worte waren nicht bös[e] gemeint/

(fam ) hư; không ngoan ngoãn; không vâng lời; vô lễ (ungezo gen, unartig);

du bist ein böses Kind : con đúng là một đứa trẻ hư.

böse /['bo.zaj (Adj.): 1. tồi tệ, độc ác, bất lương (verwerflich); ein böser Mensch: một con người độc ác; das Böse in ihm hat gesiegt; cái ác trong con người hắn đã thắng; Schneewittchen hatte eine böse Stiefmutter: nàng Bạch Tuyết có một bà mẹ kế độc ác. 2. xấu, tồi, dở (schlecht, schlimm, Übel); eine böse Krankheit: một căn bệnh hiểm nghèo; die Worte waren nicht bös[e] gemeint/

(ugs ) (các bộ phận cơ thể) bị viêm tấy (entzündet);

einen bösen Finger haben : có một ngón tay bị viêm tấy.

böse /['bo.zaj (Adj.): 1. tồi tệ, độc ác, bất lương (verwerflich); ein böser Mensch: một con người độc ác; das Böse in ihm hat gesiegt; cái ác trong con người hắn đã thắng; Schneewittchen hatte eine böse Stiefmutter: nàng Bạch Tuyết có một bà mẹ kế độc ác. 2. xấu, tồi, dở (schlecht, schlimm, Übel); eine böse Krankheit: một căn bệnh hiểm nghèo; die Worte waren nicht bös[e] gemeint/

(dùng để nhấn mạnh nghĩa của động từ hoặc tính từ) rất; quá; lắm; cực kỳ; đặc biệt; vô cùng (sehr, überaus);

sich böse irren : nhầm lẫn một cách tai hại.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Böse /sub/

1. m, f người tức giận (gắt gỏng, cáu bẳn, bẳn tính); 2. m [con] qủi, qủi sứ; 3. điều ác, điều xấu, [mói] tai họa, tai nạn; - s tun [zufügen] làm điều xấu (điều ác) cho ai.

Metzler Lexikon Philosophie

Böse,das

Der Begriff ist nur im Gegensatz zum Begriff des Guten verständlich und wird traditionell als »privatio debiti boni« (Raub des geschuldeten Guten) definiert. Der Begriffsbildung liegt die Erfahrung von Lebensverhinderung, von Beeinträchtigung von Glück und Heil zugrunde. Die Frage nach dem B.n, differenzierbar als »malum physicum« (Schmerz und Leid), »malum morale« (Übel und Schuld) und »malum metaphysicum« (Unvollkommenheit der Schöpfung, das B. als Mangel an Sein), wirft die Frage nach dem Woher und Wozu des B.n auf und ist aufs Engste mit der Frage nach dem Sinn menschlichen Lebens und nach der Ordnung der Welt verknüpft.

(1) In der Theologie wird die Frage nach dem B.n auf dem Hintergrund des Theodizeeproblems (Theodizee) diskutiert: Wie lässt sich die Rede von einem »guten Gott« angesichts des B.n in der Welt rechtfertigen? Das Buch Hiob gilt als der klassische Ort dieser Auseinandersetzung. Man spricht in diesem Zusammenhang vom »Geheimnis des Bösen«. Diesem Geheimnis trägt die von Augustinus systematisch entwickelte Erbsündenlehre Rechnung, die an das paulinische Wort vom »Gesetz der Sünde« (Röm 7:23) anschließt und das Phänomen des B.n mit dem Begriff der (Willens)Freiheit des Menschen verknüpft, der aus eigenem Antrieb das B. tut. Das Projekt einer »Theologie nach Auschwitz« wirft neue Legitimationsprobleme auf und führt die Rede von der »Allmacht Gottes« angesichts der Manifestation des B.n in Auschwitz ad absurdum (D. Sölle, H. Jonas).

(2) Religionspsychologisch wurden wiederholt dualistische Lösungsvorschläge unterbreitet, die neben einem Prinzip des Guten (»Gott«) ein, mehr oder weniger gleichwertiges, Prinzip des B.n (»Teufel«) annahmen. In der modernen theologischen Diskussion ist dieses Konstrukt umstritten: »Abschied vom Teufel«? (H. Haag). Auf der anderen Seite hat sich ein spezifischer »Kult des B.n« (Satanismus) entwickelt.

(3) Biologische (K. Lorenz: Das sogenannte Böse) und psychologische (S. Freuds Ansatz vom »Thanatos«, C. G. Jungs Theorie vom »Schatten«) Annäherungen an das Phänomen des B.n verweisen auf die Triebstruktur des Menschen und verlagern das B. in die Natur des Menschen. Diese Antwort auf die Frage nach dem Woher des B.n hat bereits I. Kant (Die Religion innerhalb der Grenzen der bloßen Vernunft) vorgeschlagen. Die Philosophie behandelt das Phänomen nicht nur unter der Rücksicht der Theodizeefrage (Beispiel: Leibniz’ Essais de theodicee), sondern auch im Bereich der Phänomenologie (RicŒur).

CSE

(4) Ethisch lässt sich von einem bösen Willen sprechen, wenn die dem sittlich Guten zuwiderlaufenden und zerstörerischen Ziele geradezu als solche angestrebt werden, im Unterschied zu einem Handeln aus falscher Einsicht oder Schwäche. – Dagegen hält Kant einen »schlechthin bösen Willen«, bei dem der Widerstreit gegen das Sittengesetz selbst zur Triebfeder wird, also das B. um des B.n willen getan wird, für »teuflisch« und auf den Menschen nicht anwendbar. Bei ihm bezeichnet das »radikal Böse« die Umkehrung der Triebfedern im Menschen, wenn nämlich die Selbstliebe zur Bedingung der Befolgung des moralischen Gesetzes gemacht wird, mit anderen Worten, wenn ich das Gute nur tue unter der Bedingung, dass es mir nicht schadet oder unangenehm ist (Die Religion innerhalb der Grenzen der bloßen Vernunft, B 31 ff). [FPB]

CSE%2FFPB

LIT:

  • H.-J. Ehni: Das moralisch Bse. Freiburg 2006
  • K. Lorenz: Das sogenannte Bse. Wien 321973
  • P. Ricur: Symbolik des Bsen. Freiburg 1971
  • L. Szondi: Kain. Gestalten des Bsen. Wien 1969
  • B. Welte: ber das Bse. Eine thomistische Untersuchung. Basel 1959.