TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

theologie

Thần học

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Công giáo cổ

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Kinh thánh

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

truyền giáo

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

chính thống

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

thực tế

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

có hệ thống

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

nhà thần học.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Anh

theologie

theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển triết học Kant

old Catholic theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

biblical theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Protestant theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

orthodox theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

practical theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

systematic theology

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Đức

theologie

Theologie

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

negative

 
Metzler Lexikon Philosophie

natürliche

 
Metzler Lexikon Philosophie

altkatholische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

biblische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

evangelische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

orthodoxe

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

praktische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

systematische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Pháp

theologie

Théologie

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

vieux catholique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

biblique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

évangélique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

orthodoxe

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

pratique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

systématique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Theologie /[teolo’gi:], die; -n/

thần học;

Từ điển triết học Kant

Thần học [Đức: Theologie; Anh: theology]

Xem thêm: Tương đồng/Loại suy, Nhà thờ, Vũ trụ học, Thượng đế, Lịch sứ, Đấng quan phòng, Tâm lý học, Biện thần luận,

Phê phán của Kant về thần học liên quan đến một đối tượng hết sức đặc biệt, tức thần học triết học được Christian Wolff phát triển và được xem như một nhánh của “siêu hình học chuyên biệt”. Thần học của Wolff đã đánh dấu giai đoạn xâm phạm đầu tiên của triết học - một phân khoa thấp hon của đại học thế kỷ XVIII - vào địa hạt của phân khoa cao hon là Thần học. Bước đi này đã bị các nhà thần học tấn công quyết liệt bằng đủ mọi phưong tiện, kể cả việc vận động tòa án, nhằm giữ triết học ở nguyên vị trí của nó. Những cuộc đấu tranh ấy rốt cuộc đã dẫn đến việc trục xuất Wolff ra khỏi nước Phổ và một sắc lệnh cấm bàn luận về các sách của ông. Những âm vang trong cuộc đấu tranh này giữa phân khoa triết học và phân khoa thần học vẫn vang vọng trong XPK của Kant, và quyết định tính chất của phê phán của ông về thần học.

Bàn luận của Kant về thần học hiếm khi lạc khỏi việc ông phê phán sự lý giải của trường phái Wolff về Thượng đế như một đối tượng của “siêu hình học chuyên biệt” cùng với vũ trụ (vũ trụ học) và linh hồn (tâm lý học). Các bài giảng của ông về thần học triết học hầu như có hình thức một bình luận phê phán về mục bàn về Thượng đế mang màu sắc triết học Wolff trong cuốn Metaphysica [Siêu hình học] (1739) của Baumgarten, và phê phán của ông về Thần học trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm” (PPLTTT) là một đặc trưng của sự phá hủy từng điểm một đối với “lý tính thuẫn túy” trong siêu hình học trường phái Wolff. Tuy nhiên, trong phê phán của mình, Kant cẩn trọng để không nhượng bộ thần học triết học cho các nhà thần học. Đúng hon, ông lập luận rằng trong khi Thượng đế không thể là một đối tượng của nhận thức tư biện, nhưng nó có thể là một định đề của lý tính thực hành. Việc ông dẹp bỏ nhận thức để “dành chỗ cho lòng tin” (PPLTTT B 30) được hướng đến cả thần học triết học lẫn sự lý giải Thánh kinh của phân khoa thần học. Vì thế, bàn luận về sự xung đột giữa triết học và thần học trong XPK kết thúc với một thái độ đoàn kết nhất trí với tôn giáo phi-thiết chế và phi-thần học được đưa ra dưới hình thức một lá thư do Carol Arnold Wilmans viết về “những người ly giáo và những nhà huyền học” yêu sách rằng dù ông chưa bao giờ “tìm thấy một nhà thần học nào trong số họ”, nhưng “nếu những người ấy là triết gia thì hẳn họ sẽ là những nhà Kant học chân chính (xin thứ lỗi vì cách dùng từ!)” (XPK, tr. 74-75, tr. 137-138).

Thế nên, phê phán của Kant về thần học là một bộ phận quan trọng của phê phán rộng hon của ông về Siêu hình học, và hầu hết tập trung chủ yếu vào những sự chứng minh cho sự hiện hữu của Thượng đế. Trong HHTĐ từ năm 1763, phê phán của ông đã là bộ phận của một sự vận động khái quát trong tư tưởng của ông chống lại “sự tinh tẽ sai lầm” (xem thêm TS): “Đấng quan phòng không mong đợi rằng những thức nhận cần thiết nhất cho sự ngu muội của con người phải dựa trên sự tinh tế của những suy luận được trau chuốt” (HHTĐ, tr. 65, tr. 43). Nhưng, trong khi “lưong thức tự nhiên” là đủ, nó có thể “bị làm lẫn lộn bởi tài khéo sai lầm” (sđd), và vì thế, đồng thời với cuốn “Chứng minh sự Tinh tế sai lầm của Bốn dạng Tam đoạn luận” trên phưong diện logic, cần phải chống lại “tài khéo sai lầm” trong lập luận.

Trong HHTĐ, Kant nhận diện bốn sự chứng minh về sự hiện hữu của Thượng đế, và phân loại chúng thành nhóm dựa theo việc chúng được rút ra “hoặc từ các khái niệm thuần lý của cái có thể có đon thuần, hoặc từ các khái niệm thường nghiệm của cái đang hiện hữu” (tr. 155, tr. 223). Nhóm đầu được gọi là những chứng minh “hữu thể học”, nhóm hai được gọi là những chứng minh “vũ trụ học”, về những chứng minh vũ trụ học, Kant phê phán cái gọi là sự chứng minh kiểu Descartes, vốn đi từ sự hoàn hảo của [khái niệm] Thượng đế đến kết luận về sự hiện hữu của Ngài. Một hữu thể hoàn hảo hẳn sẽ sở hữu mọi thuộc tính gồm cả sự hiện hữu, tuy nhiên Kant chỉ ra rằng sự hiện hữu không phải là một thuộc tính mà chỉ là sự thiết định các thuộc tính. Sự chứng minh ưa thích của Descartes không tìm kiếm các Cổ sở cho sự hiện hữu của Thượng đế, mà thay vào đó lập luận rằng Thượng đế tồn tại vì mệnh đề đối lập (tức [mệnh đề] Thượng đế không hiện hữu) là không thể suy tưởng được (HHTĐ, tr. 162, tr. 237, xem thêm NTĐT, tr. 392, tr. 69); nhưng, lập luận “giả tạo” cốt lõi này cho thấy rõ những dấu hiệu của sự cắn rứt lưong tâm và sự suy giảm của đức tin. Tuy nhiên, Kant cũng phê phán mạnh mẽ không kém đối với luận cứ chứng minh đầu tiên trong các chứng minh vũ trụ học, sử dụng nguyên tắc lý do đầy đủ từ các kết quả đã được nhận thức đến một nguyên nhân nền tảng, và đã “giành được nhiều quan tâm qua trường phái triết học Wolff” (HHTĐ, tr. 158, tr. 229). Ông ít phê phán hon đối với luận cứ vũ trụ học thứ hai, đi từ sự sắp xếp có mục đích được nhìn thấy trong vũ trụ đến một đấng sáng tạo, nhưng ông lập luận rằng, tuy lập luận này không bao giờ có thể đạt được sự chính xác, nhưng vẫn được đánh giá cao vì sức mạnh của nó trong việc “truyền sinh lực cho nhân loại bằng những tình cảm thanh cao có khả năng tạo ra hoạt động cao quí” (HHTĐ, tr. 161, tr. 235). Ông giữ vững lập trường này trong PPNLPĐ và THTN, trong đó luận cứ vũ trụ học thứ hai được xem như xác lập một thần học luân lý dựa trên cơ sở của nhận thức tương tự (loại suy) về Thượng đế.

Trong PPTTTT, Kant thậm chí còn từ bỏ nỗ lực còn sót lại và không hào hứng lắm của giai đoạn cuốn HHTĐ để đưa ra một sự chứng minh về sự hiện hữu của Thượng đế. Trong Chương III của “Biện chứng pháp Siêu nghiệm”, phần bàn về “ý thể của Lý tính thuẫn túy” (theo sau những sự phá hủy tâm lý học thuần lý và vũ trụ học thuần lý trong phần các Võng luận và các Nghịch lý), ông tuyên bố ba sự chứng minh của thần học thuần lý - trên phương diện “bản thể học”, “vũ trụ học” và “vật lý-thần học” - là không thể đứng vững được. Một chuỗi lập luận loại suy, với một số khác biệt về chi tiết, có thể được nhận thấy trong phần đầu cuốn THTN bàn về “Thần học Siêu nghiệm”. Cả hai phiên bản phê phán của Kant về thần học đều biện hộ cho yêu sách rằng lý tính con người không thể nào đạt được nhận thức tư biện hoặc lý thuyết về Thượng đế.

Kant cho rằng sự chứng minh bản thể học là không thể có được, vì tồn tại không phải là một thuộc tính, và vì thế không thể được cho là thuộc về nhóm các thuộc tính tạo nên hữu thể có tất cả tính thực tại (ens realissimus). Thuộc từ “tồn tại” [hay hệ từ “là”] “chỉ là cái thiết định mỗi quan hệ của chủ ngữ với vị ngữ” (PPTTTT A 599/ B 627), và câu nói ‘Thượng đế là” [hay “có một Thượng để’] không gán thuộc tính mới nào cho khái niệm “Thượng đê” mà chỉ “thiết định bản thân chủ ngữ với tất cả những vị ngữ của nó, nghĩa là chỉ thiết định đối tượng trong quan hệ với

khái niệm của tôi” (sđd). Yêu sách rằng hữu thể có tất cả tính thực tại và hoàn hảo nhất phải sở hữu thuộc tính “sự hiện hữu” sẽ gây rối loạn những cấp độ gán vị từ trên phương diện logic và phương diện hiện thực. Bởi lẽ, sự hiện hữu không phải là một khái niệm mà là sự thiết định, thông qua đó khái niệm và đối tượng có thể quan hệ với nhau. Sự thiết định hiện thực của sự hiện hữu hoặc “toàn cảnh của kinh nghiệm xét như một cái toàn bộ” được phân biệt nghiêm ngặt với khái niệm logic vốn đơn thuần “nhất trí với các điều kiện phổ biến của một nhận thức thường nghiệm khả hữu” (PPLTTT A 600/ B 628). Mọi ý thức về sự hiện hữu, hoặc trực tiếp/ thuộc nhận thức hoặc suy luận ra, chỉ có thể có hiệu lực bên trong lĩnh vực của “sự thống nhất của kinh nghiệm”. Bên ngoài sự thống nhất này, nó không có nghĩa gì hết, và việc cố gắng chứng minh nó cách khác “chỉ hoài công vô ích” (PPLTTT A 602/ B 630).

Khác với sự chứng minh bản thể học về sự hiện hữu của Thượng đế, tức một luận cứ hoàn toàn tiên nghiệm đi “từ tính thực tại tối cao rồi suy ra sự tất yếu trong sự Tồn tại” (PPTTTT A 604/ B 632), sự chứng minh vũ trụ học đi từ đại tiền đề: “Nếu một cái gì đó tồn tại, thì một Hữu thể tất yếu vô điều kiện cũng phải tồn tại”, qua tiểu tiền đề: “Tôi tồn tại” để đi đến kết luận “vậy, một Hữu thể tất yếu tuyệt đối cũng phải tồn tại” (PPTTTT A604/ B 632). Kant tuyên bố rằng sự chứng minh ấy chứa đựng “cả một ổ các lý lẽ biện chứng”, như sự mở rộng phạm trù về tính nhân quả - vốn chỉ có nghĩa bên trong thế giới khả giác - đến cái siêu - cảm tính; sự suy luận một nguyên nhân đệ nhất từ một chuỗi vô tận; và sự lẫn lộn các khả thể logic và khả thể siêu nghiệm của một Hữu thể có tất cả tính thực tại (ens realissimus) (PPTTTT A 610/ B 638).

Những sự chứng minh bản thể học và vũ trụ học đều phạm sai lầm trong việc chuyển hóa những nguyên tắc điều hành trên phương diện tiềm năng thành các nguyên tắc cấu tạo, vì thế đã hữu thể hóa tính tất yếu như một nguyên tắc mô thức của tư duy thành một “điều kiện chất liệu của sự tồn tại” (PPTTTT A 620/ B 648). Cả hai sự chứng minh đều đi từ những sự trừu tượng hóa như “sự hiện hữu nói chung” đến “các khái niệm về các sự vật nói chung”, trái lại, sự chứng minh vật lý-thần học đi từ “kinh nghiệm xác định” về trật tự trong tự nhiên đến một (“hay một số’) “nguyên nhân cao cả và sáng suốt” (PPLTTT A 625/ B 653). Tuy nhiên, để tiến hành từ kinh nghiệm về thế giới này đến nguồn gốc của nó, Kant cho rằng sự chứng minh ấy phải viện đến những sự chứng minh bản thể học và vũ trụ học đã bị mất tín nhiệm, và vì thế phải thất bại cùng với chúng.

Qua việc phê phán ba sự chứng minh ấy, Kant tuyên bố đã làm xói mòn thần học tư biện một cách dứt khoát. Trong PPLTTT, Hữu thể có tất cả tính thực tại chỉ được phép có như một nguyên tắc điều hành; và không được phép có bất kỳ suy luận tư biện nào từ khái niệm đến một đối tượng của sự hiện hữu cả. Trong THTN, ông phát triển một thần học luân lý, đặt Cổ sở lỏng lẻo trên Baumgarten vốn nhắm đến một sự hoàn tất có tính xây dựng, đến sự phá hủy những sự chứng minh của thần học tư biện. Ông đề xuất hãy xem sự hiện hữu của Thượng đế như một “định đề cần thiết cho các quy luật không thể bàn cãi của chính bản tính của tôi” (tr. 110) và xác lập một khái niệm xác định về Thượng đế như điều kiện tất yếu cho luân lý. Bằng cách này, nhận thức có vẻ hợp lý về Thượng đế bị bỏ đi để dọn chỗ cho niềm tin thực hành.

Hoàng Phú Phương dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Theologie /m -gen, -gen/

nhà thần học.

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Theologie

[DE] Theologie

[EN] theology

[FR] Théologie

[VI] Thần học

Theologie,altkatholische

[DE] Theologie, altkatholische

[EN] old Catholic theology

[FR] Théologie, vieux catholique

[VI] Thần học, Công giáo cổ

Theologie,biblische

[DE] Theologie, biblische

[EN] biblical theology

[FR] Théologie, biblique

[VI] Thần học, Kinh thánh

Theologie,evangelische

[DE] Theologie, evangelische

[EN] Protestant theology

[FR] Théologie, évangélique

[VI] Thần học, truyền giáo

Theologie,orthodoxe

[DE] Theologie, orthodoxe

[EN] orthodox theology

[FR] Théologie, orthodoxe

[VI] Thần học, chính thống

Theologie,praktische

[DE] Theologie, praktische

[EN] practical theology

[FR] Théologie, pratique

[VI] Thần học, thực tế

Theologie,systematische

[DE] Theologie, systematische (Dogmatik, Moral)

[EN] systematic theology (dogmatics, ethics)

[FR] Théologie, systématique (dogmatique, morale)

[VI] Thần học, có hệ thống (giáo điều, đạo đức)

Metzler Lexikon Philosophie

Theologie

Th. als Rede oder Lehre von Gott gibt es als solche in vielen Religionen, die eine hinreichende Reflexion als Durchdenken ihrer Religion von innen ausbilden. Im Unterschied dazu bestehen Wahrheitsanspruch und -kriterium der Religionsphilosophie und der Religionswissenschaft nicht in der Richtigkeit der Aussage in Bezug auf Gott, sondern auf die Religion. – Die abendländische Wortverwendung ist Spiegelbild der wechselnden geistesgeschichtlichen Einstellung zum Gottesgedanken. Platon übernimmt die Bedeutung als Rede von den Göttern, und bewahrt damit auch die sophistische Skepsis gegen die mythische und kultische Tradition. Ganz anders füllt Aristoteles den Begriff, im Einklang mit seinem Verständnis vom Göttlichen: Die Th. stellt er als betrachtende Wissenschaft in die Reihe von Mathematik und Physik, aber noch über diese, denn ihrem Gegenstand nach ist sie die erhabenste (Met. 1026a). Im christlichen Umfeld setzt sich der heidnisch »vorbelastete« Begriff nur zögernd durch und dann in Konkurrenz zum beliebteren »oikonomia«, was stärker das Handeln Gottes in Schöpfung, Erlösung und Vollendung zum Ausdruck bringen kann. Umgekehrt führt die Wiederentdeckung des Aristoteles zu einer natürlichen Th. im Sinne einer Metaphysik des höchsten Seins, nebst der nötigen Zuordnung von Natur und Gnade, von Glauben und Wissen, von Philosophie und Th., die das thomasische und das Denken der Neuscholastik durchzieht. Die christliche Th. bezog und bezieht aus der jeweils zeitgenössischen Philosophie Denkmodelle, mit denen sie ihre Botschaft, wie sie sich in der Schrift (und der Tradition) findet, explizieren und rechtfertigen kann. Dies trifft nicht nur für die Gotteslehre zu (die Dogmen z.B. über Trinität werden auf dem Hintergrund des Gemeinguts spätantiker philosophischer Begrifflichkeit formuliert), sondern auch andere Kernbereiche der Dogmatik wie die Christologie, theologische Anthropologie und die Schöpfungslehre. Umgekehrt wirken im Rahmen der Th. konzipierte Begriffe und Modelle auf die Philosophie ein, wie z.B. der Personbegriff. Der These Löwiths (Weltgeschichte und Heilsgeschehen, 1949) folgend, steht die Eschatologie (die Lehre vom Ende der Welt) am Anfang der Geschichtsphilosophie. Weitere dogmatische Themen sind die Kirche in der Ekklesiologie und die Sakramentenlehre.

Die Einteilung bzw. der Aufbau der Th. folgt heute einer Unterscheidung zwischen »spekulativen« und »positiven« Disziplinen. Sie trägt damit auch gegenwärtigen methodischen Ansprüchen Rechnung, da verschiedene Aspekte des Gegenstands der Th., die Lehre von Gott, seiner Botschaft und seines Handelns, und deren Entfaltung in der Kirche je angemessene wissenschaftliche Beschäftigung erfahren. Zur »positiven« Th. gehören die biblischen Fächer (Exegese) und die Kirchengeschichte, die sich weitgehend an den methodischen Vorgaben entsprechender »profaner« Wissenschaften (z.B. der Philologie) orientieren. Die »spekulativen«, heute meist »systematisch« genannten Disziplinen der Dogmatik, Moraltheologie und Fundamentaltheologie (früher: Apologetik) beziehen ihr Instrumentarium aus der Philosophie (bedeutend Heideggers Einfluss auf die Transzendentaltheologie und die kerygmatische Th.) und der Hermeneutik. Zu den praktischen Fächern zählen Kirchenrecht, Liturgik, Pastoraltheologie (mit Homiletik), Religionspädagogik (Katechetik) und Sozialethik, in die Erkenntnisse benachbarter Humanwissenschaften einfließen können.

PK

LIT:

  • J.B. Metz: Theologie. In: Lexikon fr Theologie und Kirche. Bd. 8. S. 6271
  • G. Picht (Hg.): Theologie was ist das? Stuttgart/Berlin 1977
  • R. Schaeffler: Wechselbeziehungen zwischen Philosophie und katholischer Theologie. Mnchen 1978
  • H. Zahrnt: Die Sache mit Gott. Mnchen 81988.

Theologie,negative

setzt prinzipiell auf Verneinung im aphairetischen sowie apophatischen Sinne als geeignete Methode der Erkenntnis Gottes in seiner absoluten Einfachheit sowie reinen Negativität. Sie gründet auf der religiösen Erfahrung der Unverfügbarkeit Gottes als des Ganz Anderen sowie auf philosophischen Aporien bezüglich der Determination eines ersten Ursprungs von Denken und Sein – dies besonders im Anschluss an die Platonische Bestimmung der Idee des Guten als letzten Seins-, Erkenntnis- und Wertprinzips, das »noch jenseits des Seins« steht und als »das Unbedingte« gilt (Politeia 509b; 511b), sowie an die erste Hypothese des Platonischen Dialoges Parmenides, der zufolge es vom Einen »weder Namen noch Definition noch Erkenntnis noch Wahrnehmung noch Vorstellung« gibt (142a). Beide Grundzüge spiegeln sich im neuplatonischen Begriff des nun emphatisch als göttlich verstandenen Einen wider, auf das – so Proklos – ein »theologischer Hymnus … durch die Negationen« emporgesandt werden kann (In Parmenidem 1191, 32 ff.). Philon, Clemens v. Alexandrien, Gregor v. Nyssa, Gregor v. Nazianz, Johannes Chrysostomus, Augustin u. a. bekräftigen gemeinsam, wenngleich in unterschiedlicher Akzentuierung, die Unerkennbarkeit der Wesenheit Gottes. Zuerst jedoch beim intensiv im MA. rezipierten Dionysius Pseudo-Areopagita vollziehen explizit »apophatische Theologien« als Gegenstück zur positiven Prädikation den alle Bestimmungen absprechenden Aufstieg zum »überguten« und »überseienden«, sogar »übergöttlichen« und »überunerkennbaren« Gott als der jeder Setzung und Verneinung erhabenen »Ursache von allem«: In der dadurch erzielten Unio mystica soll eine nicht-erkennende Erkenntnis, d.h. eine ekstatische Erfahrung des »völlig Unerkennbaren« stattfinden (De mystica theologia 1, 2–5). An diese Lehre der nicht-kategorialen Definierbarkeit und somit Unendlichkeit der göttlichen Natur als »Nichts von Allem« schließen Eriugena, Thomas v. Aquin, Eckhart, Marsilio Ficino, Nikolaus v. Kues, Charles de Bovelles u. a. sowie die Hermetik und die christliche Kabbala ausdrücklich an. Wesentliche Motive der n. Th. – wie die Unabschließbarkeit und die Andersheit, nicht jedoch deren Grundabsicht der Einung mit einem überwesentlichen Wesensprinzip – nimmt die Dekonstruktion auf.

OFS

LIT:

  • D. Carabine: The Unknown God. Louvain 1995
  • J. Derrida: Wie nicht sprechen. Wien 1989
  • J. Hochstaffl: Negative Theologie. Mnchen 1976
  • M.J. Krahe: Von der Wesensart negativer Theologie. Diss. Mnchen 1975
  • J.- L. Marion: Lidole et la distance. Paris 1977
  • J. Miernowski: Le Dieu Nant. Leiden 1997
  • R. P. Scharlemann (Hg.): Negation and Theology. Charlottesville 1992
  • . Zum Brunn/A. de Libera: Mtaphysique du Verbe et Thologie ngative. Paris 1984.

Theologie,natürliche

(lat. theologia naturalis bzw. rationalis), auch Theologik, Philosophische Gotteslehre oder Philosophische Theologie genannt, neben der Ontologie ein Teil der Metaphysik. N. Th. fällt nicht mit der Annahme rationaler Gottesbeweise (Aristoteles, Thomas, Descartes, Leibniz) zusammen, die die Kantische Kritik angeblich vernichtet hat, denn es finden sich auch andere Formen n.r Th., so wenn Plotin aufgrund der Vielheit in der Welt nach der Einheit fragt, Cusanus meint, dass jede Frage über Gott das Gefragte bereits voraussetze, Jaspers das Dass Gottes mit dem Freiheitsbewusstsein in Verbindung bringt oder Scheler glaubt, vom religiösen Akt her einen erkenntnismäßigen Zugang zu Gott zu bekommen. Damit ist auch schon klar, dass die n. Th. kein Gottesverhältnis begründet, also nicht identisch ist mit der natürlichen Religion. Das Natürliche der n.n Th. ist nicht die Natur, sondern die Vernunft, wenn es auch verschiedene erkenntnismäßige Zugänge zu Gott gibt, die den Weg über den Weltbezug nehmen wie der kosmologische Gottesbeweis. Daneben gibt es aber auch Wege, die rein über die Vernunft laufen wie der ontologische Gottesbeweis. – Neben dem Dass Gottes kommt die n. Th. auch zu einigen wenigen Wesensaussagen über Gott: Dass Gott einer ist, dass er unveränderlich ist (i. S. der reinen Aktualität, die absolute Lebensfülle impliziert) und dass er ewig ist (also der Zeit enthoben); wobei das nicht bedeutet, dass ich damit weiß, wie diese Eigenschaften in Gott realisiert sind. – Die n. Th. hat mit der Theologie die sog. praeambula fidei gemeinsam (partielle Identität), ihr kommt aber auch in Bezug auf die Glaubensgeheimnisse der Charakter eines negativen Kriteriums zu: Was den Erstprinzipien (Thomas) oder den ewigen Wahrheiten (Leibniz) widerstreitet, kann nicht von Gott sein; das bedeutet aber keine Rationalisierung der Glaubenswahrheiten. Der Gott der Philosophen und der Gott der Religiösen ist zwar real identisch, aber intentional verschieden (Scheler).

WS

LIT:

  • N. Fischer: Die philosophische Frage nach Gott. Paderborn 1995
  • J. Schmidt: Philosophische Theologie. Stuttgart 2002.