TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

vernunft

Lý tính

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Lý trí

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lẽ phải

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lương tri

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Lý trí

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

lí trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trí năng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lí tính

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
zensur der vernunft

kiểm duyệt lý tính

 
Từ điển triết học Kant

Anh

vernunft

reason

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
zensur der vernunft

censorship of reason

 
Từ điển triết học Kant

censorship

 
Từ điển triết học Kant

reason

 
Từ điển triết học Kant

Đức

vernunft

Vernunft

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

instrumentelle

 
Metzler Lexikon Philosophie

praktische

 
Metzler Lexikon Philosophie

theoretische

 
Metzler Lexikon Philosophie
zensur der vernunft

zensur der vernunft

 
Từ điển triết học Kant

zensur

 
Từ điển triết học Kant

vernunft

 
Từ điển triết học Kant
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

j-n zur Vernunft bringen

làm... tỉnh ngộ [tu tĩnh], giảng giải, dạy bảo, răn bảo, giải thích; ~

ánnehmen, zur Vernunft kommen

tỉnh ngộ, tu tỉnh, thấy lẽ phải, mỏ mắt ra;

j-m Vernunft predigen

khuyên nhủ, dỗ dành.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Vernunft /[feor'nunft], die; -/

lý trí; lý tính; lẽ phải; lương tri;

Từ điển triết học Kant

Lý tính [Hy Lạp: logos/nous; Latinh: ratio; Đức: Vernunft; Anh: reason]

Xem thêm: Tuyệt đối, Trực quan, Nguyên tắc, Vô điều kiện, Giác tính, Thống nhất (sự),

Bản tính của lý tính là một trong những chủ đề trung tâm của triết học, và đã khoi ra sự tranh cãi liên tục gần như suốt 2.500 năm qua. Tuy nhiên, có những điểm cố định trong sự tranh cãi này giúp ta định vị sự đóng góp của Kant. Thứ nhất, điểm cố định đó là rõ ràng hiển nhiên ở Aristoteles, là xu hướng đi từ hành vi lập luận đến một năng lực hay đặc tính của linh hồn đang lập luận. Sự phân biệt này giữa sự lập luận và lý tính xuất hiện suốt cả lịch sử triết học, thấy rõ ở sự phân biệt của Aquinas giữa năng lực hay quan năng là lý tính với lý tính như là sự lập luận, cũng như trong những mô tả của Descartes về lý tính trong Discours de la méthode/Luận văn vê phương pháp như là “năng lực để phán đoán một cách chính xác... về mặt tự nhiên thì ai cũng như nhau” (1637, tr. 4) đồng thời như là một “lập luận (nói chung) về những sự việc” (tr. 9). Một đặc điểm bền vững hon nữa của lý tính là tính chất [trí tuệ] cao và sự liên tưởng nó với thị giác và ánh sáng. Aristoteles mô tả nó bằng sự loại suy “giống như thị giác trong đôi mắt, lý tính là thị giác trong linh hồn” (1941, 108a, 10). Descartes thường mô tả nó bằng “ánh sáng tự nhiên” của linh hồn. Việc có lý tính cũng được xem một cách phổ quát như là đặc trưng có tính định nghĩa của con người và là sự phân biệt cụ thể chủ yếu giữa con người và thú vật, hay nói như Descartes, “nó là cái duy nhất làm chúng ta là người và phân biệt chúng ta với thú vật” (tr. 4).

Việc Kant sử dụng lý tính có thể được định vị một cách rộng rãi trong những thông số này của sự tranh luận, cho dù ở nhiều chỗ quan trọng, ông đã chia tay với truyền thống. Trong quyển BLS thuộc giai đoạn tiền-phê phán, chính lý tính là cái phân biệt con người với thú vật, và là một quan năng nền tảng của phán đoán. Quan năng phán đoán là “lý tính” theo nghĩa rộng, nhưng trong định nghĩa này, Kant đi theo sự phân biệt của Wolff giữa giác tính và “lý tính” theo nghĩa hẹp. Ông quan sát thấy rằng “cả hai đều là năng lực để phán đoán, nhưng giác tính là quan năng của nhận thức phân biệt và phán đoán gián tiếp, còn lý tính theo nghĩa hẹp là “quan năng suy luận” qua đó “ta rút ra một kết luận” (BSL tr. 59, tr. 103). Những phân biệt này giữa lý tính theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, và giữa giác tính với lý tính được đưa vào trong PPLTTT, với quan niệm rằng lý tính [là cái] xác định cái gì là riêng có của con người.

Mặc dù Kant giữ lại nhiều đặc điểm của sự phân biệt của Wolff giữa BSL với PPLTTT, ông mở rộng một cách đáng chú ý phạm vi và ý nghĩa của lý tính. Đây chủ yếu là kết quả của sự khảo sát có hệ thống về quan hệ giữa lý tính và sự tự do của con người. Sự liên kết giữa lý tính và sự tự do đã được các nhà nhân văn thời Phục hưng như Pico della Mirandola và Pomponazzi (xem Cassier và n.k., 1948) đưa ra, nhưng chính Kant là người cho thấy rằng lý tính và sự tự do có thể làm xói mòn nhau cũng dễ dàng như chống đỡ cho nhau. Thức nhận này thấm nhuần sự phân biệt của ông giữa sự áp dụng lý tính trên phưong diện lý thuyết và thực hành. Từ thế đứng của lý tính, con người được giải thoát khỏi ảnh hưởng có tính quy định của thế giới giác quan; điều này cho phép con người hành động theo những nguyên tắc độc lập với tự nhiên; nhưng nó cũng khuyến khích con người đưa ra những suy luận về thế giới vượt quá những ranh giới của giác tính. Khi lý tính liên minh với tự do, nó trở nên thái quá, theo đuổi cái vô-điều kiện, phá vỡ mọi ranh giới, “chính là vì, [ý hướng của] tự do bao giờ cũng có thể vượt lên trên mọi ranh giới đang có” (PPLTTT A315/B 3 74). Những hàm ý của năng lực này đối với lý tính lý thuyết được bàn trong PPLLTT dưới nhan đề “Biện chứng pháp siêu nghiệm”, trong khi những hàm ý thực hành và thẩm mỹ hoàn toàn khác được xét đến trong PPLTTH và trong “Phân tích pháp vê cái cao cả” của PPNLPĐ.

Trong PPNLPĐ, Kant đưa ra hai phân loại học (taxonomy) về các quan năng của nhận thức tạo thành lý tính theo nghĩa rộng. Phân loại thứ nhất là sự phân chia về “những quan năng nhận thức cao hon” đặt lý tính sau giác tính và năng lực phán đoán, và hạn chế hoạt động của nó vào việc tạo ra “những suy luận” (PPLTTT A 131/B 169). Trong bảng phân loại thứ hai, lý tính được đặt sau giác quan và giác tính, và đóng vai trò thống nhất tư tưởng; chính bảng phân loại này được Kant dựa vào trong suốt phần “Biện chứng pháp siêu nghiệm” (cái trước trở nên nổi bật trong phần dẫn luận vào PPNLPĐ). Trên Cổ sở của cái sau, Kant đưa ra hai đường đi của nhận thức. Đường thứ nhất, từ dưới lên, “khởi đầu từ các giác quan, rồi tiến lên giác tính và kết thúc ở lý tính” (A 298/B 355). Đường thứ hai, từ trên xuống, xuất phát từ sự phân biệt giữa tính tự khởi của lý tính và giác tính với tính thụ nhận của cảm năng; nó bắt đầu bằng cách xem xét “những đối tượng của nó chỉ đon thuần theo các ý niệm và quy định cả giác tính cũng phải hướng theo các ý niệm, dù giác tính chỉ sử dụng các khái niệm của riêng mình (cũng là thuần túy) một cách thường nghiệm” (A 547/B 575). Trong cả hai trường hợp, lý tính đóng vai trò thống nhất nhận thức, nhưng phưong cách mà nó làm lại khác với sự thống nhất cái đa tạp của trực quan do giác tính thực hiện.

Giác tính tạo ra “sự thống nhất cho những hiện tượng nhờ các quy luật”, trong khi lý tính “tạo ra sự thống nhất cho những quy luật của giác tính vào dưới những nguyên tắc” (PPLTTT A 302/B 359). Mỗi một quan năng thống nhất những đối tượng khác nhau theo những phưong cách khác nhau; giác tính làm công việc thống nhất cái đa tạp trong trực quan, và lý tính làm công việc thống nhất “cho giác tính, nhằm mang lại sự thống nhất tiên nghiệm cho những nhận thức đa tạp của giác tính thông qua các khái niệm - một sự thống nhất có thể mệnh danh là sự thống nhất thuần lý của lý tính (Vernunfteinheit) và bằng một phưong cách hoàn toàn khác với phương cách đã có thể được thực hiện bởi giác tính” (PPLTTT A 302/B 359). Mặc dù sự thống nhất của lý tính và giác tính là hoàn toàn khác nhau, Kant theo đuổi một chiến lược cho việc diễn dịch “những khái niệm”, “những nguyên tắc” và “những ý niệm” của lý tính tương tự với sự diễn dịch những khái niệm của giác tính hay những phạm trù. Nghĩa là, trong trường hợp giác tính, ông đi từ bảng các phán đoán đến bảng các phạm trù, còn trong trường hợp của lý tính, ông đi theo một con đường tương tự từ hình thức của các suy luận hay các tam đoạn luận đến những ý niệm (A 321/B 378). Việc áp dụng sự loại suy của diễn dịch vào lý tính dẫn đến việc tìm “một cái vô-điêu kiện, trước hết, cho sự tổng hợp nhất thiết trong một chủ thể; thứ hai là cho sự tổng hợp giả thiết về các đơn vị của một chuỗi, và thứ ba cho sự tổng hợp phân đôi của các bộ phận trong một hệ thống” (PPLTTT A 323/B 379). Từ những chức năng logic của lý tính trong các hình thức của tam đoạn luận, Kant rút ra những ý niệm siêu nghiệm hay tuyệt đối, vô-điều kiện của lý tính, đó là “linh hồn” hay “chủ thể” tuyệt đối, “đối tượng” hay “thế giới” tuyệt đối và một “ý thể’ tuyệt đối hay Thượng đế. Mỗi một ý niệm này của lý tính đều có một sự trình bày có tính khoa học tương ứng trong tâm lý học, vũ trụ học, và thần học.

Lý tính, không như giác tính, không bị ràng buộc với những điều kiện của một kinh nghiệm khả hữu nhưng “bao giờ cũng liên quan đến cái toàn thể tuyệt đối trong sự tổng hợp những điều kiện và không bao giờ ngừng lại cho tới khi đạt được cái vô điều kiện tuyệt đối, tức là cái có giá trị trong mọi phương diện và mọi mối quan hệ” (PPLTTT A 326/B 382). Nỗ lực của lý tính hướng đến cái toàn bộ luôn “bị giới hạn và khiếm khuyết”, vì nó không bao giờ “khép mình trong những ranh giới nhất định” (A 328/B 385). Khi thoát khỏi những giới hạn của kinh nghiệm, nó có xu hướng muốn xem xét những đối tượng như linh hồn, thế giới (xét như là một cái toàn bộ) và Thượng đế như thể chúng là những đối tượng của một kinh nghiệm khả hữu. Điều này dẫn lý tính lạc lối vào võng luận, nghịch lý và những ý thể có tính cấu tạo. Đề xuất cải thiện của Kant đối với tình hình này có hai phương diện lớn; thứ nhất là phải thừa nhận rằng những ý niệm của lý tính chỉ là những nguyên tắc điều hành chứ không phải là những nguyên tắc cấu tạo (A 509/B 537); thứ hai là phải thừa nhận rằng những ranh giới mà sự sử dụng tư biện về lý tính gặp phải đối với “cái đang là” là không có giá trị cho sự sử dụng lý tính một cách thực hành khi nó xác định cái gì “phải là” (A 547/B 575).

Trong “Biện chứng pháp siêu nghiệm” của quyển PPLTTT và suốt cả quyển PPLTTH, Kant lập luận rằng cho dù có nhiều “nguyên nhân [cổ sở] tự nhiên”, “những kích thích cảm tính”, và “những xu hướng” có thể thúc đẩy ý chí hành động, nhưng “chúng không bao giờ có thể tạo ra cái phải là” (PPLTTT A 548/B 576). Cái sau phải là tuyệt đối và vô-điều kiện, và chỉ có thể được mang lại bởi lý tính. Hon nữa, chỉ khi cái phải là được lý tính mang lại thì hành động mới có thể là tự do và tự khởi, được quy định không phải bởi những nguyên tắc dị trị mà bởi những quy luật do lý tính đề ra. Kant nhất mực cho rằng lý tính “không chịu tuân phục trật tự của những sự vật như chúng đang biểu lộ ra trong hiện tượng, trái lại, tự tạo ra một trật tự riêng với tính tự khởi hoàn toàn hướng theo các ý niệm, buộc những điều kiện thường nghiệm phải thích ứng với các ý niệm này và thậm chí tuyên bố các hành vi phù hợp với các ý niệm là tất yếu, kể cả khi chúng không diễn ra và có lẽ cũng sẽ không diễn ra” (PPLTTT A 548/B 576). Tính bất khả phân ly giữa lý tính và tự do được bàn luận hầu như là trên từng trang quyển PPLTTH, và cho phép Kant có thể chuyển được ba ý niệm không thể biện minh được về mặt lý thuyết thành ba “định đề của lý tính thuần túy thực hành”, được biện minh về mặt thực hành, về sự bất tử, sự tự do và sự hiện hữu của Thượng đế.

Xúc cảm của lý tính như là sự tôn kính đối với quy luật luân lý cũng chính là cái làm Cổ sở cho kinh nghiệm về cái cao cả đã được bàn luận trong PPNLPĐ. Ở đó, sự tôn kính đối với cái cao cả được định nghĩa là “xúc cảm về nỗi bất lực của ta trong việc đạt đến được một ý niệm, khi ý niệm ấy là quy luật đối với ta”, còn trong trường hợp luân lý là “một ý niệm áp đặt lên ta bởi một quy luật của lý tính” (PPNLPĐ §27). Xúc cảm về “cái cao cả ở trong tự nhiên là sự tôn kính trước sứ mệnh của riêng ta; một sự tôn kính vốn được ta dành cho đối tượng của tự nhiên do một sự lẫn lộn” (sđd.). Chính xúc cảm này thấm nhuần tinh thần tán dưong của Kant đối với sự tự do và lý tính ở cuối quyển PPLTTH bằng câu nói: “Bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi” (tr. 162, tr. 166), câu này có thể đã được viết trước đó ba thế kỷ ở Florence, và trong đó tái hiện tất cả các chủ đề hiện nay trong đẳng thức nhân bản luận về lý tính và sự tự do.

Đinh Hồng Phúc dịch

Kiểm duyệt lý tính (sự) [Đức: Zensur der Vernunft; Anh: censorship of reason]

Xem thêm: Triết học phê phán, Sự kiện, Phương pháp, Lý tính, Chân lý,

Sự kiểm duyệt lý tính được mô tả trong PPLTTT như là giai đoạn hoài nghi thứ hai trong sự phát triển của lý tính thuần túy. Giai đoạn thứ nhất là thuyết giáo điều, được đồng nhất với trường phái Wolff, thuyết này đưa ra các nguyên tắc siêu việt mà không biện minh chúng một cách chính đáng; giai đoạn thứ hai là sự kiểm duyệt có tính hoài nghi về các nguyên tắc này, được đồng nhất với Hume; trong khi đó giai đoạn thứ ba là sự nghiên cứu tỉ mỉ có tính phê phán về những ranh giới của lý tính do chính Kant thực hiện. Trong bước thứ ba, Kant đòi hỏi rằng sự kiểm duyệt có tính hoài nghi về các sự kiện của lý tính hay những giới hạn hiện có của nó (its present bounds) phải được tiếp nối bằng thuyết phê phán về những ranh giới của nó (its limits) (PPLTTT A 760/B 788).

Thân Thanh dịch

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Vernunft /f =/

lí trí, trí năng, lí tính, lẽ phải, lương tri; j-n zur Vernunft bringen làm... tỉnh ngộ [tu tĩnh], giảng giải, dạy bảo, răn bảo, giải thích; Vernunft ánnehmen, zur Vernunft kommen tỉnh ngộ, tu tỉnh, thấy lẽ phải, mỏ mắt ra; j-m Vernunft predigen khuyên nhủ, dỗ dành.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Vernunft

[VI] Lý tính; Lý trí

[DE] Vernunft

[EN] reason

Vernunft

[VI] Lý tính; Lý trí

[DE] Vernunft

[EN] reason

Vernunft

[VI] Lý tính

[DE] Vernunft

[EN]

Metzler Lexikon Philosophie

Vernunft

(griech. nous, logos, dianoia; lat. intellectus, ratio), etymologisch von »vernehmen« abgeleitet, hatte V. im ältesten Deutschen die Bedeutung von »richtig auffassen« sowie von »Überlegung« als dem Vermögen, das Aufgefasste im Geiste zu verarbeiten. Die antiken Griechen grenzten den Logos als objektive Kosmos-V., die zu klarer Einsicht in die ewigen und unveränderlichen Seinsstrukturen befähigt, sowohl vom Mythos als auch von der Aisthesis (sinnliche Wahrnehmung) ab. Im MA. wurde V. als Vermögen übersinnlicher Erkenntnis (intellectus) vom diskursiven, schlussfolgernden Denken (ratio) unterschieden. Seit der auf Eckhart und Luther zurückgehenden Übersetzungstradition von ratio wurde V. gewöhnlich mit dem im Gegensatz zu Verstand (intellectus) stehenden niederen Erkenntnisorgan identifiziert, das Sinneswahrnehmungen unter Begriffe bringt. Kant legt den philosophischen Gebrauch endgültig fest, indem er V. (ratio) dem diskursiven Verstand als das »Vermögen der Einheit der Verstandesregeln unter Prinzipien« überordnet.

Charakteristisch für die Begriffsgeschichte von V. in der abendländischen Philosophie ist das Gegensatzpaar von intuitiver und diskursiver V.-Erkenntnis. Seine Wurzeln liegen in der antiken Philosophie. Platon unterscheidet die intellektuelle Anschauung (noesis), die mittels des Nous, dem »Auge des Geistes«, die erfahrungstranszendenten Ideen erschaut, von der dianoia, die durch methodisches, begriffliches Denken zur Ideenerkenntnis aufsteigt. Indem Platon diese Bestimmungen als Formen der theoria (geistige Schau der Ideen) versteht, und diese wiederum dem dialogischen Denken überordnet, etabliert er ein solipsistisches V.-Verständnis. Obwohl bei Aristoteles der ursprüngliche Gebrauch von logos in der Doppelbedeutung von Rede und Denken festgehalten ist, verfestigt sich hier die Auffassung einer sprach- und kommunikationsunabhängigen V. dadurch, dass von einer bloß konventionellen, für wahre Erkenntnis daher vermeintlich irrelevanten, Zuordnung der sprachlichen Zeichen zu den Gedanken ausgegangen wird.

Die antike Vernachlässigung der Redefunktion und die einseitige Hervorhebung der logisch-semantischen Dimension des Denkens, von Apel als »Logosvergessenheit« charakterisiert, prägt die V.-Auffassung bis in die Gegenwart. Paradigmatisch für die mittelalterliche Wirkungsgeschichte der aristotelischen V.-Konzeption steht Thomas von Aquin. Mittels ratio (schlussfolgerndem Denken) sollen Urteile auf Grundeinsichten zurückgeführt bzw. aus Grundeinsichten abgeleitet werden können, die durch cognitio intellectualis (V.) intuitiv erfasst werden. – Die Vorstellung eines einsamen, von der öffentlichen Kommunikation enthobenen Denkens wird in der Bewusstseinsphilosophie (von Descartes bis Husserl) radikalisierend fortgetragen. Sie liegt auch Kants »Aufhebung« der überlieferten spekulativen Vorstellung einer durch unausweisbare Intuition und darauf aufbauender Deduktion bestimmten V. zugrunde. Kant betont den reflexiven Charakter der V., die sich in Form einer Kritik der reinen (theoretischen und praktischen) V. über die Bedingungen objektiver Erkenntnis und deren Grenzen Rechenschaft ablegen können müsse. Dies führt Kant zu einer Theorie der Verstandeserkenntnis, die nicht über den Bereich der Gegenstände möglicher Erfahrung hinausgehen dürfe. Der konstitutiven Erkenntnisfunktion des Verstandes sei hinsichtlich des erfahrungstranszendenten Bereichs eine lediglich regulative Funktion der V. zur Seite zu stellen, die Verstandeshandlungen auf die Einheit eines obersten intelligiblen Zweckes beziehe.

Die »Vergesellschaftung« der bei Kant noch gänzlich subjektiv auf die Einheit eines Selbstbewusstseins bezogenen V. kündigt sich im objektiven Idealismus Hegels an, der die Abhängigkeit der subjektiven V. von der sich in gesellschaftlichen Institutionen veräußernden, objektiven V. hervorhebt. Nachdem Herder und vor allem W. v. Humboldt auf die Sprachlichkeit der V. hingewiesen hatten, Wittgenstein die konstitutive Funktion einer intersubjektiv geteilten Umgangssprache für das Denken erwiesen hatte, explizierte schließlich die Universal- und Transzendentalpragmatik (Habermas, Apel) in Anknüpfung an Peirces Pragmatismus V. als Inbegriff von Argumentation bzw. Diskurs. Sie gewinnt damit das dialogisch-pragmatische Moment von V. zurück, das im Logos-Grundsatz des Sokrates (Kriton, 46 b), der den Anspruch auf dialogische Geltungsprüfung formulierte, implizit schon enthalten war. Durch das zweifache Sprach- und Kommunikationsapriori allen Denkens sei sowohl der intersubjektive Sinnanspruch der V. (durch Bezugnahme auf die reale Kommunikationsgemeinschaft) als auch ihr intersubjektiver Geltungsanspruch (Bezugnahme auf die regulative Idee eines idealen Konsenses der idealen Argumentationsgemeinschaft) gesichert. Durch diese V.-Konzeption kann der modernen Einsicht in die geschichtliche und kulturelle Relativität der V. ebenso Rechnung getragen werden wie dem unverzichtbaren Anspruch der V. auf universelle Geltung. Von einer Rekonstruktion der in jeder Äußerung notwendig erhobenen Geltungsansprüche (Verständlichkeit, Wahrheit, Richtigkeit, Wahrhaftigkeit) ausgehend, entwirft die Transzendentalpragmatik eine Theorie der Rationalitätstypen (praktische und theoretische V.; kommunikative, strategische, instrumentelle Rationalität), die Differenzierungen in den V.-Begriff einzuführen vermag, mit denen einer auf Kritik der instrumentellen V. zurückgehenden prinzipiellen V.-Skepsis entgegengetreten werden kann.

HGR

LIT:

  • U. Anacker: Art. Vernunft. In: H. Krings u. a. (Hg.): Handbuch philosophischer Grundbegriffe. Mnchen 1974. Bd. 6. S. 15971612
  • K.-O. Apel: Die Herausforderung der totalen Vernunftkritik und das Programm einer philosophischen Theorie der Rationalittstypen. In: Concordia 11 (1987). S. 223
  • A. Berlich/D. Bhler: Art. Vernunft. In: Th. Meyer u. a. (Hg.): Lexikon des Sozialismus. Kln 1986. S. 696 ff
  • D. Bhler/H. Gronke: Art. Diskurs. In: G. Ueding (Hg.): Historisches Wrterbuch der Rhetorik. Bd. 2. Tbingen 1994. Sp. 764819
  • H. Schndelbach (Hg.): Rationalitt. Frankfurt 1984
  • Ders.: Vernunft. In: E. Martens/H. Schndelbach (Hg.): Philosophie. Ein Grundkurs. Bd. 1. Reinbek 1991. S. 77115
  • Ders.: Vernunft und Geschichte. Frankfurt 1987.

Vernunft,instrumentelle

von M. Horkheimer geprägter Begriff, der sich kritisch gegen den neuzeitlichen Typ des zweckrationalen Handelns (M. Weber) wendet. Zweckrationalität umfasst in ihrer ursprünglichen Bedeutung sowohl die wertrational orientierte Zwecksetzung als auch die rationale Mittelwahl. Im Begriff der i. V. wird der Aspekt der vernünftigen Bestimmung von Zwecken ausgeblendet. Damit geht die Behauptung einher, dass die menschliche Vernunft, sobald sie der Bereitstellung technischer und ökonomischer Mittel diene, ihre Zwecksetzungskompetenz verliere. Dieser Prozess lässt sich in folgenden Schritten rekonstruieren: (1) Die Vernunft dient seit der Neuzeit nur noch einem einzigen Zweck, d.h. der Selbsterhaltung des Individuums, die keine rationale Wahl mehr zulässt. Folglich wird die Vernunft »blind« gegenüber der Vielfalt möglicher Zwecke. (2) Die Vernunft dient nur noch dazu, Mittel zur Selbsterhaltung bereitzustellen; dadurch wird sie selbst zu einem bloßen Mittel »instrumentalisiert«, eben auf i. V. reduziert. (3) Alle Gegenstände und Handlungen verwandeln sich in eine »Welt von Mitteln«; waren sie ursprünglich Selbstzwecke (wie Wahrheit und Kunst), werden sie nun (unter den Bedingungen der Kulturindustrie) als Mittel unter den einen Selbsterhaltungszweck subsumiert. Auf diese Weise verkehren sich Zweck und Mittel. (4) Die technischen und ökonomischen Mittel verselbständigen sich gegenüber den menschlichen Zwecken und nehmen den Charakter »autonomer Wesenheiten« an. Hier mündet die Kritik der i. V. in die zeitgenössische und spätere Technokratiedebatte ein. Zweckrationalität, Mittel/Zweck.

JRO

LIT:

  • J. Habermas: Theorie des kommunikativen Handelns. Frankfurt 1981
  • M. Horkheimer: Zur Kritik der instrumentellen Vernunft. Frankfurt 1967.

Vernunft,praktische

In einer allgemeinen Bestimmung kann p. V. als der Anspruch des Menschen bezeichnet werden, sein Handeln an allgemeinen Grundsätzen zu orientieren und gemäß der Weisung allgemeinverbindlicher Normen begründen und rechtfertigen zu können. In dieser Fassung ist die p. V. ihrer Idee nach handlungsleitende Vernunft (Wieland). Dadurch sucht sie eine Antwort darauf zu geben, wie der Mensch sein Leben gestalten soll. Dieses allgemeine Verständnis tritt in der Tradition der Philosophie in verschiedenen Gestalten auf. Die Verschiedenheit resultiert aus der veränderten Auffassung, worin der Maßstab des Allgemeinen zu finden ist. Insofern stellt die p. V. immer auch eine Reflexion über das praktisch Vernünftige und den Maßstab des Vernünftigen dar. Dadurch beinhalten die Reflexionen der p.n V. eine doppelte Perspektive: Einerseits eine Vorstellung darüber, was Vernunft im Praktischen bedeute, und andererseits, was es heißt, das Handeln vernünftig zu bestimmen.

Für die Etablierung der p.n V. als einer gegenüber der theoretischen Vernunft selbständigen Fragerichtung sind zwei Unterscheidungen von Aristoteles grundlegend: (a) Der vernünftige Seelenteil (das Logistikon) unterscheidet sich von dem Epistemonikon (dem erkennenden Seelenteil) durch seine eindeutige Ausrichtung auf den Bereich der Praxis, d.h. auf die Fähigkeit, in Bezug auf das Handeln, richtige Überlegungen anzustellen. (b) Das Handeln unterscheidet sich vom Herstellen (Techne) hinsichtlich seiner spezifischen Zielstruktur. Beim Herstellen stellen die Ziele ganz bestimmte Produkte dar, die durch eine Tätigkeit hervorgebracht werden. Insofern ist die Redeweise berechtigt, dass das Ziel außerhalb der Tätigkeit liegt. Dagegen ist für das Handeln (Praxis) spezifisch, dass das Ziel im Akt bzw. durch den Vollzug verwirklicht wird. Die Relevanz der Differenzierung wird erst plausibel, wenn man hinzuzieht, worin das allgemeine Ziel des menschlichen Lebens bei Aristoteles besteht. Die Eudaimonie stellt das innere Ziel des Menschen dar, in dem sich der Mensch als Mensch realisiert. Eudaimonie heißt das »gute Leben« als »gelungenes Handeln«, das der Mensch um seiner selbst willen anstrebt und verwirklicht. Er sucht sein Ziel nicht außerhalb, da er sein Ziel nur durch die Verwirklichung seiner Natur, d.h. durch logoshaftes Handeln erreichen kann. Was der Vernunft gemäß ist, ist erkennbar und entscheidet sich an dem, was Sitte und Gesetz in der Polis ist. Die Vernunft im Praktischen ist bei Aristoteles durch den allgemeinen Zweck, nämlich das gute Leben in der Polis, vorgegeben. Der Wertmaßstab des guten Lebens ist im Vollzug der Handlung selbst zu suchen, nur die gelungene Praxis verbürgt p. V. Nur ein Wesen, das sich an dem Guten orientiert, handelt vernünftig. – Der Stellenwert der p.n V. verändert sich grundlegend, wenn diese teleologische Zweckstruktur nicht mehr ein Element des menschlichen Selbstverständnisses ist. Denn dadurch ist auch der Rahmen des Allgemeinverbindlichen nicht mehr selbstverständlich. Der p.n V. ist es nunmehr aufgegeben, von sich aus einen Maßstab zu finden, an dem sich das Handeln allgemein auszurichten hat. Der Utilitarismus verweist auf eine dem Handeln immanente Rationalitätsstruktur, nämlich die Abwägung der Handlungsfolgen nach subjektiver Nützlichkeit und Zuträglichkeit. Die p. V. erhält eine doppelte Struktur: Das hedonistische Kalkül stellt einerseits eine rein rechnerische, auf die Handlungswirklichkeit bezogene Vernunft dar – die Frage nach subjektiven Beweggründen erübrigt sich. Das von Bentham in dieses Kalkül projizierte Prinzip des größten Glücks der größten Zahl formuliert andererseits einen allgemeinen Ordnungsgedanken der ausgewogenen Verteilung der Güter, ohne dass ersichtlich ist, wie dieser allgemeine Maßstab sich mit dem Interesse nach subjektiver Befriedigung verbinden lässt. J. St. Mill kann der p.n V. nur den Sinn abgewinnen, dass sich der Handelnde diejenigen Regeln, die eine rationale Praxis ermöglichen, aus wissenschaftlichen Theorien beschaffen muss. Die Allgemeinheit der Regeln gründet in der wissenschaftlichen Erkenntnis, d.h. dem Wissen um allgemeine Gesetze, um Ursache-Wirkungs-Zusammenhänge. Die p. V. hat nunmehr den Status einer Prüfung von Konsistenz und Zweckrationalität: Der Mensch hat zu prüfen, ob die intendierten Zielzustände mit anderen basalen Zielzuständen verträglich sind und ob der Zweck mit anderen wünschenswerten Zwecken kollidiert. Der Mensch ist prinzipiell in Situationen gestellt, in denen er aufgefordert ist, in Erfahrung zu bringen, wie die jeweilige Situation beschaffen ist, in der er handeln soll oder muss. Er muss den Weg zu einer effektiven Handlungswirklichkeit (mit Hilfe der Wissenschaften) begründet angeben können. Eine derartige p. V. kann aber keine Aussage darüber machen, ob und warum ein Zweck erstrebenswert ist und warum alle danach streben sollen, und bietet somit keine Antwort auf die Frage, wie der Mensch sein Leben gestalten soll. – Kant bestreitet dem auf Nützlichkeit ausgerichteten Denken nicht generell den Charakter einer p.n V. In solchen subjektiven Regeln, die sich der Handelnde gesetzt hat, kommt seiner Ansicht nach die einfache p. V. zur Geltung. Er macht allerdings darauf aufmerksam, dass solche Zwecksetzungen nicht den Charakter des Allgemeinen für sich in Anspruch nehmen können. Wenn aber Handeln nicht ohne Zweckstruktur zu denken ist, die subjektiven Zwecksetzungen aber zu heterogenen Glückseligkeitsvorstellungen führen, bedarf es eines besonderen Verfahrens, um die Allgemeinheit sicherzustellen. Der kategorische Imperativ bietet dazu die geeignete Handhabe, die Übereinstimmung der subjektiven Maximen mit einer uneingeschränkten Allgemeingültigkeit herzustellen, indem er fordert: Handle so, dass die Maxime deines Willens jederzeit zugleich als Prinzip einer allgemeinen Gesetzgebung gelten könne. Er fordert zu keiner konkreten Handlung auf, sondern verlangt eine bestimmte Weise des Handelns im Allgemeinen, die unbedingte Geltung beanspruchen kann. Kant erreicht damit die doppelte Frageperspektive der p.n V., nämlich wie der Mensch sein Handeln an einer selbstgesetzten Perspektive ausrichten kann und welcher Maßstab des Vernünftigen dabei in Rechnung zu stellen ist. Wenn die Materie den Willen bestimmt, dann wird der Mensch von seinen Neigungen zu irgendeinem Inhalt (oder Glücksvorstellung) gelenkt. Dadurch kann er nicht seinem Anspruch auf p. V. entsprechen, vielmehr begibt er sich damit in Abhängigkeit einer Fremdbestimmung der naturhaften Triebe. Zu einer Selbstbestimmung findet er nur in Absehung von jedem Objekt. Das entspricht zunächst der negativen Bestimmung von Freiheit (von Fremdbestimmung). In positiver Bestimmung realisiert sich die Freiheit in der Autonomie. Das Prinzip der Autonomie wiederum schließt bei Kant ein, dass sich das Subjekt nur unter dasjenige Gesetz stellt, welches es sich selbst gegeben hat. Freiheit wird von der p.n V. positiv als Bestimmung der Willkür durch die bloße allgemeine gesetzgebende Form begriffen, d.h. der Mensch hat zu prüfen, ob seine subjektiven Maximen sich unter eine solche allgemeine Form subsumieren lassen. Das Prüfungsinstrument dazu stellt der kategorische Imperativ dar. – Der von Apel und Habermas vertretene Ansatz einer kommunikativen p.n V. unternimmt den Versuch, den kategorischen Imperativ Kants, der sich an das einzelne Vernunftsubjekt richtet, in einen rationalen Dialog zu transponieren. Der Geltungsanspruch moralischer Normen soll von einer intersubjektiven Rechtfertigung in einem Verfahren wechselseitiger argumentativer Begründung abhängig gemacht werden. P. V. wird so zur kritischen, begründenden Vernunft, die Prinzipien nur dann als begründet gelten lässt, wenn sie allgemein gerchtfertigt sind. Dadurch sucht sie den moralischen Autonomiebegriff intersubjektiv-prozedural zu reformulieren. Als programmatischer Satz gilt: P. V. ist das Vermögen und die Bereitschaft, begründet zu handeln – p. V. ist begründende Vernunft in intersubjektiven Kontexten. Eine solcherart p. V. trägt zum einen dem Umstand Rechnung, dass wir auf keine objektiven Werte oder lebensweltlichen Gewissheiten rekurrieren können, wenn die Frage beantwortet werden soll, wie wir zu handeln haben. Sie unterlässt es aber auch, solche Normvorgaben zu erstellen. Vielmehr trägt sie der geschichtlichen Veränderbarkeit einerseits und der möglichen Partikularität solcher Vorstellungen andererseits dadurch Rechnung, dass sie ein kritisches Fragepotential an gesellschaftlich vorfindliche normative Gehalte heranträgt. P. V. ist kommunikativ begründende, aber auch sich selbst hinterfragende Vernunft. Sie fordert die Gründe ein, auf denen die Geltung bestimmter Werte oder Normen in den Gemeinschaften beruht.

PP

LIT:

  • K.-O. Apel: Das Apriori der Kommunikationsgemeinschaft und die Grundlagen der Ethik. In: Tranformation der Philosophie. Bd. II. Frankfurt 1973. S. 358 ff
  • R. Bubner: Handlung, Sprache und Vernunft. Frankfurt 1976
  • Ders.: Geschichtsprozesse und Handlungsnormen. Frankfurt 1984
  • R. Forst: Kontexte der Gerechtigkeit. Frankfurt 1994
  • J. Habermas: Vom pragmatischen, ethischen und moralischen Gebrauch der praktischen Vernunft. In: Erluterungen zur Diskursethik. Frankfurt 1991. S. 100 ff
  • Ders.: Theorie des kommunikativen Handelns. Frankfurt 1981
  • H. Schndelbach: Vernunft. In: E.Martens/H. Schndelbach (Hg.): Philosophie. Reinbek/Hamburg 1985. S. 77 ff
  • W. Wieland: Aporien der praktischen Vernunft. Frankfurt 1989
  • G. Zenkert: Konturen praktischer Rationalitt. Wrzburg 1989.

Vernunft,theoretische

Spezifizierung des Vernunftbegriffes, die den bestimmten Gegensatz zur praktischen V. darstellt. Th. V. bezeichnet generell – im Unterschied zur bloßen sinnlichen Wahrnehmung – das Ensemble geistiger Vermögen, die das Erkennen prinzipiieren. Praktische V. hingegen ist begründend für das Handeln. Platons Vernunftkonzept ist theoretisch fundiert und orientiert. Im Phaidon (79 a-e) nennt Platon den Verstand resp. th. V. als eigentliches Seelenfundament des Menschen, das die rezeptive Schau der Ordnung des Seins ermöglicht. Im Staat (35–444) unterscheidet er den rationalen Seelenteil (logistikon) vom Mut (thymos) und der Begierde (epithymia), differenziert somit zwischen theoretischer, kontemplativer Rationalität – in die auch die Idee des Guten gehört – und leibabhängigen Seelenteilen (der Vorbedingung der praktischen Rationalität). Der rational-theoretische Seelenteil ist eindeutig den »praktischen« Teilen vorgeordnet, denn nur dem rationalen Seelenteil kommt die Postexistenz zu. Die Seele erkennt am besten nach dem Tode, wenn sie von den praktischen, erkenntnisverstellenden Ansprüchen der leibbedingten Seelenteile – dem muthaften und begierdehaften – getrennt ist (Staat 611c und Phaidon 64–67). – Für Aristoteles ist der tätige Verstand den Gegebenheiten der Sinnlichkeit gegenüber genauso souverän wie der Künstler gegenüber seinem Stoff (de an. 430a ff.). Aristoteles differenziert zwischen th. V. (nous theoretikos) einerseits und praktischer V. (nous praktikos) oder auch praktischem Verstand (dianoia praktike) andererseits (de an. 433 a 13 ff). Die praktische V. ist von der theoretischen durch das Ziel (to telei) geschieden. Die th. V. hat nicht in einem Zweck ihr Prinzip und ist im Gegensatz zur praktischen eine solche, die nicht durch Streben nach Zwecken »bewegt« wird. – Mit Kant erfährt der Vernunftbegriff die letzte neuzeitliche Prägung. Th. V. hat für Kant eine engere und weitere Bedeutung. Im weiteren Sinne ist sie das System aller Prinzipien des Denkens, die die Erkenntnis ermöglichen. Die konstitutiven Denk-Bedingungen der Gegenständlichkeit, die über die Prinzipien der Anschauung hinaus auch noch den Anschauungsgegenstand letztfundieren, nennt er Kategorien. Sie sind Resultat einer Transformation der Urteilsformen (KrV, Transzendentale Deduktion). Kant lehrt, dass die Eigenbestimmtheit des Denkens, die die formale Logik darlegt, zu Bedingungen transformierbar sein müsse, denen jeder Gegenstand zu genügen habe, soll er auch nur als Gegenstand in der Anschauung gegeben werden können. Das Totum der gegenstandskonstitutiven Prinzipien des Denkens heißt bei Kant reiner Verstand. Neben dem Verstand ist th. V. im engeren Sinne der zweite Hauptbestandteil von th.r V. im weiteren Sinne. Auch die Weisen, wie Vernunftschlüsse vollzogen werden, gehören zur Eigenbestimmtheit des Denkens – genauso wie die Urteilsformen. Deshalb können die Schlussarten zu Ideen transformiert werden (KrV, Transzendentale Dialektik). Die drei Ideen sind Seele, Welt und Gott. Die Ideen beziehen sich nicht konstitutiv auf Anschauungsgegenstände, sondern regulativ auf die Erfahrungsoperation des Verstandes. Somit fallen unter die Ideen keine Gegenstände, sondern sie sind vielmehr strukturierend für den Erfahrungsgebrauch des Verstandes. Die jeweilige Vernunftidee projektiert die durchgängige, systematische Einheit der Gegenstände ihrer Sphäre und veranlasst den Verstand, durch stetigen Rückgang zu immer neu empirisch konstatierbaren Bedingungen im empirischen Forschen, diese Einheit nachzuweisen. Aus Gründen der Urteilstheorie, die auch das Fundamentalprinzip der Unbestimmtheit als notwendiges Moment des Urteils aufweist, kann dies aber der Verstand nie realiter leisten. Hält man die Vernunftidee fälschlich für den konstitutiven Begriff eines Gegenstandes, so wird V. dialektisch und gerät in Antinomien. – Im Gegensatz zum unendlichen Streben der praktischen V., alle Realität zu sein, hat für den frühen Fichte die th. V. die Funktion, das Ich gegenüber dem Nicht-Ich zu begrenzen und dadurch als endliche V. auszuweisen (Grundlage der gesamten Wissenschaftslehre). – In Hegels absoluter Idee ist V. das Totum aller Realität, so dass Rationalität der durchgängige Selbstgegenstand seiner selbst ist. Th. und praktische V. können deshalb als Momente der Selbstentfaltung der einen Idee verstanden werden. Vernunft, Vernunft, praktische.

RHI

LIT:

  • H. Albert: Traktat ber kritische Vernunft. Tbingen 51991
  • H.M. Baumgartner: Endliche Vernunft. Zur Verstndigung der Philosophie ber sich selbst. Bonn 1991
  • W. Flach: Grundzge der Erkenntnislehre. Wrzburg 1994
  • K. Konhardt: Die Einheit der Vernunft. Zum Verhltnis von theoretischer und praktischer Vernunft in der Philosophie Kants. Knigstein/Ts. 1979
  • Gerold Prauss: Kant ber Freiheit als Autonomie. Frankfurt 1983
  • G. Schnrich: Zeichenhandeln. Untersuchungen zum Begriff einer semiotischen Vernunft im Ausgang von Ch. S. Peirce. Frankfurt 1990
  • H. Wagner: Philosophie und Reflexion. Mnchen/Basel 31980.