TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

definition

định nghĩa

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học HEGEL
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

sự thiết lập

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

độ nét

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

sự xác định

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

xác định

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

định nghĩa.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

sự định nghĩa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lời định nghĩa

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

minh định

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

các phương pháp cắt đứt

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

tách rời

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Schneiden và Trennen khác nhau thế nào ?

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

tạo hình

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Sự tạo hình

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

tạo khuôn

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

cắt đứt

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Tạo dạng nguyên mẫu

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

công

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Độ dẫn nhiệt

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Anh

definition

definition

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học HEGEL
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

setup

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Cutting operations

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

definitions

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Primary forming

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Cuttlng operations

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Work

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Thermal conductivity

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Đức

definition

Definition

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Từ điển triết học Kant

Trennen

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Urformen

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Arbeit

 
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Wärmeleitfähigkeit

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

erklärung/definition

 
Từ điển triết học Kant

erklärung

 
Từ điển triết học Kant

Pháp

definition

définition

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

dogmatische Definition

minh định tín lý.

Từ điển triết học Kant

Định nghĩa (sự) [Latinh: definitio; Đức: Erklärung/Definition; Anh: definition]

Xem thêm: Phân tích, Bản thể, Phương pháp, Triết học, Chân lý,

Trong quyển PPLTTT, Kant mô tả định nghĩa như là sự “diễn tả khái niệm về sự vật một cách tường minh trong các ranh giới của nó một cách căn nguyên”: “sự tường minh” lại có nghĩa là “sự rõ ràng và đầy đủ các đặc điểm”; “trong các ranh giới” nghĩa là sự chính xác của những đặc điểm trong một khái niệm, và “căn nguyên” nghĩa là đặc điểm của ranh giới không được rút ra từ nơi khác (PPLTTT A 728/B 756). Kant quảng diễn rộng để chỉ ra rằng, nói một cách chặt chẽ, không thể có những định nghĩa triết học. Những khái niệm thường nghiệm cũng không thể định nghĩa được, bởi vì không thể biết được chính xác ranh giới của chúng, cũng như không biết chắc chắn chúng có là căn nguyên không. Chúng có thể được giải nghĩa (explicated) bằng cách làm cho nội dung của chúng trở nên minh nhiên, nhưng chúng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của định nghĩa. Cũng không thể định nghĩa các khái niệm tiên nghiệm, vì không thể đoan chắc rằng sự phân tích đã được tiến hành một cách tường minh hay hoàn chỉnh: “sự tường minh của việc phân tích khái niệm của tôi bao giờ cũng còn đáng ngờ, và các trường hợp được kiểm chứng chỉ đủ để xác tín một cách phỏng chừng về nó chứ không làm cho nó thành một sự xác tín hiển nhiên được” (PPLTTT A 729/B 757). Ta có thể mang lại một sự trĩnh bày (exposition) cho những khái niệm như thế nhưng chỉ là một sự phỏng chừng “gần đúng” (L tr. 633) đối với một định nghĩa. Khái niệm duy nhất có thể định nghĩa được là một khái niệm “do chính tôi tạo ra” (PPLTTT A 729/B 757) vì tôi dám đoan chắc về sự phù hợp của nó với những yêu cầu của “ranh giới” và “tính căn nguyên”. Chỉ toán học mới có được các khái niệm như vậy, vì vậy chỉ có nó mới có các định nghĩa.

Kant giảm ngay sự chỉ trích gay gắt của mình về cách dùng từ định nghĩa trong triết học với lý do là ngôn ngữ Đức lại chỉ có một từ duy nhất là “cắt nghĩa” (Eklârung) dùng chung cho các thuật ngữ [Latinh] như: trình bày (expositio), giải thích (explicatio), tuyên bố (declaratio), và định nghĩa (dehnitio) (PPLTTT A 730/B 758). Nhưng Kant vẫn kiên định rằng việc sử dụng thuật ngữ triết học đối với chữ định nghĩa phải được phân biệt với việc sử dụng chữ định nghĩa đúng nghĩa, tức trong toán học. Sự quan tâm này quay trở lại với nỗ lực chống Wolff trước đây trong PE nhằm phân biệt phương pháp tổng hợp của toán học với phương pháp phân tích của triết học. Toán học tạo ra những định nghĩa của nó một cách tổng hợp, và toán học xác tín hiển nhiên về chúng, thế nên, trên nền tảng này có thể vững tin triển khai những diễn dịch tổng hợp. Triết học, ngược lại, không thể bắt đầu với những định nghĩa, mà chỉ có những khái niệm mù mờ cần phải đưa ra để phân tích. Kant thẳng thắn ghi nhận trong một cước chú rằng: “triết học đầy rẫy những định nghĩa sai lầm” và ắt “sẽ gây khó khăn lớn cho triết học nếu đòi hỏi một khái niệm phải được định nghĩa thật đầy đủ trước khi được phép sử dụng (PPLTTT cước chú cho A 731/B 759). Những trình bày có tính phân tích của triết học về những khái niệm có thể chưa đạt được sự chặt chẽ theo đúng yêu cầu của định nghĩa đúng nghĩa, nhưng những phỏng chừng gần đúng của nó có thể tiếp cận đến chân lý và “mang lại lợi ích lớn lao” (sđd).

Khi bàn về định nghĩa trong L§§105-8, Kant vẫn còn ở trong quỹ đạo của truyền thống triết học Wolff, và đưa ra một loạt tiêu chí để xác lập những định nghĩa triết học. Vì việc bàn về định nghĩa trong PPLTTT thường đi ngược lại sự thuyết giảng của Kant trong L§§105-8 nói trên, thiết tưởng có ích khi giới thiệu một vài điểm phân biệt quan trọng nhất. Trước tiên là sự phân biệt giữa định nghĩa duy danh hay danh nghĩa (nominal) và định nghĩa hiện thực (real). Định nghĩa duy danh bao gồm nghĩa danh nghĩa của một thuật ngữ, tức “bản thể logic” của nó phân biệt nó với những thuật ngữ khác, trong khi đó định nghĩa hiện thực “đáp ứng yêu cầu của nhận thức về đối tượng dựa theo những quy định bên trong của nó” (tr. 634). Kant bổ sung những yêu cầu của định nghĩa liên quan đến bảng các phạm trù: lượng của nó quan tâm đến “lĩnh vực của định nghĩa”; chất của nó (là) sự “tường minh” và “chính xác”; tương quan của nó là nó không được có tính lặp thừa; và tình thái của nó là tồn tại tất yếu [tr. 635]. Sau cùng, Kant còn cung cấp một số quy tắc mang đậm tinh thần của Wolff để thẩm tra xem các định nghĩa có đúng, phân minh, hoàn chỉnh và thích đáng với những đối tượng của chúng hay không (sđd). Những tiêu chí và quy tắc này tuy không bao giờ nói rõ ra trong PPLTTT, nhưng mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc trình bày là quá rõ ràng.

Trần Kỳ Đồng dịch

Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Wärmeleitfähigkeit,Definition

[EN] Thermal conductivity, definition

[VI] Độ dẫn nhiệt, định nghĩa

Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Trennen,Definition

[VI] các phương pháp cắt đứt (phân chia), định nghĩa

[EN] Cutting operations, definitions

Trennen,Definition

[VI] tách rời, định nghĩa

[EN] Cutting operations, definitions

Trennen,Definition

[VI] Schneiden và Trennen khác nhau thế nào ?

[EN] Cutting operations, definitions

Urformen,Definition

[VI] tạo hình, định nghĩa

[EN] Primary forming, definitions

Urformen,Definition

[VI] Sự tạo hình, định nghĩa

[EN] Primary forming, definitions

Urformen,Definition

[VI] tạo khuôn (đổ khuôn), định nghĩa

[EN] Primary forming, definitions

Trennen,Definition

[VI] cắt đứt, Định nghĩa

[EN] Cuttlng operations, definitions

Urformen,Definition

[VI] Tạo dạng nguyên mẫu, Định nghĩa

[EN] Primary forming, definitions

Arbeit,Definition

[VI] công, định nghĩa

[EN] Work, definition

Từ điển triết học HEGEL

Định nghĩa [Đức: Definition; Anh: definition]

Kant từng than phiền rằng “trong ngôn ngữ Đức, chỉ có một từ duy nhất là Erklärung [cắt nghĩa] dùng chung cho các từ [có nguồn gốc La- tinh] như: Exposition [trình bày], Explikation [giải thích], Deklaration [tuyên bố] và Definition [định nghĩa]” (PPLTTT B758). Wolff đã dùng Erklärung (xuất phát từ động từ erklären (làm rõ, giải thích, tuyên bố)) để dịch chữ gốc La-tinh Definition, nhưng chữ này cũng được dùng để biểu thị “sự GIẢI THÍCH”. Hegel thường dành Erklärung để biểu thị “sự giải thích”, còn khi biểu thị “định nghĩa” ông dùng chữ Definition hay đôi chỗ ông cũng dùng chữ Bestimmung (Sự QUY ĐỊNH).

Hegel bàn về “định nghĩa” rõ nhất trong hai ngữ cảnh: thứ nhất, ông cho rằng “các sự quy định” hay “các phạm trù” được xem xét trong Lô-gíc học (hay ít nhất là thành tố thứ nhất và thứ hai của mỗi BỘ BA) có thể được xem như “những định nghĩa về cái TUYỆT ĐỐI, như những định nghĩa siêu hình học về Thượng Để’, chẳng hạn TỒN TẠI cung cấp định nghĩa rằng “cái tuyệt đối” (hay Thượng Đế) là tồn tại (BKTI, §§85, 86). (Ông xem phương cách xem xét các phạm trù này là sai lầm, vì các thuật ngữ “Thượng Để’ và “cái tuyệt đối” hoặc là trống rỗng, và chỉ có nghĩa bằng vị từ của MỆNH ĐỂ định nghĩa, hoặc chúng mang những BIỂU TƯỢNG hình ảnh thường được gắn với chúng vào trong Lô-gíc học). Một định nghĩa theo nghĩa này thì không phải là định nghĩa để biểu đạt “Thượng Để’ hay “cái tuyệt đối”, nhưng là một sự xác định “Thượng Đế’ hay “cái tuyệt đối” bằng những thuật ngữ của TƯ TƯỞNG.

Thứ hai, ông xem định nghĩa, trong KHLG, như giai đoạn đầu tiên của “NHẬN THỨC tổng hợp”. (Hai giai đoạn khác là sự PHÂN TOẠI và định lý (Lehrsatz). Ở đây, ông xem xét định nghĩa về ba loại thực thể:

1. Các vật tạo tác (Artefacts) có thể được định nghĩa trực tiếp bằng MỤC ĐÍCH (Zweck) nhắm đến và bằng những đặc điểm cần có để hoàn thành mục đích ấy.

2. Các thực thể toán học là những sự trừu tượng hóa do ta tạo ra và có thể được định nghĩa bằng những gì ta đặt vào trong chúng. Khác với Kant, Hegel xem một định nghĩa chẳng hạn “Một đường thẳng là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm” là một định nghĩa ước định (stipulative) và vì thế là một mệnh đề phân tích [chứ không phải tổng hợp như quan niệm của Kant].

3. Các thực thể CỤ THỂ thuộc tự nhiên và tinh thần thì đáng nghi vấn hon nhiều. Định nghĩa của chúng, theo quan niệm về nhận thức mà Hegel đang trình bày, gồm 3 yếu tố: a) giống, hay yếu tố PHỔ BIẾN; b) sự khác biệt về loài hay yếu tố ĐẶC THỪ; c) bản thân đối tượng, tức yếu tố CÁ BIỆT, nằm bên ngoài định nghĩa, nhưng hiện thân cho giống và sự khác biệt về loài. Tetens đã đi trước Wittgenstein khi ông phản bác, trong On the Origin of Languages and Writing [Vể Nguồn gốc của các Ngôn ngữ và chữ Viết] (1772), tr 52-52, rằng nhiều từ không mở ngỏ cho một định nghĩa như vậy, vì, có thể nói, không có đặc điểm đơn độc nào là chung và dành riêng cho mọi loài vật; các loài vật khác nhau thì tương tự nhau, nhưng trong những phương diện khác nhau. Hegel không khơi ra phản bác này, một phần vì ông đang nghĩ về nỗ lực của nhà khoa học thường nghiệm muốn tạo ra các khái niệm cho những đối tượng mà họ gặp, hơn là định nghĩa về những từ đã có. Đúng hơn, vấn đề là, ít nhất là ban đầu, ta thiếu một tiêu chuẩn, giống như nguyên tắc về sự khác biệt về loài, để lựa chọn một đặc điểm bản chất, tức một đặc điểm mà toàn bộ tính chất của loài phụ thuộc vào, và ta thường chọn tiêu biểu một dấu hiệu phân biệt tương đối bề mặt nào đó, dựa trên độ lâu bền của nó mà mọi hay hầu hết thành viên của loài ấy đều có, và sự bền bỉ của nó xuyên suốt quá trình phát triển của chúng. Hegel kết luận rằng một định nghĩa như thế, nhất là khi xét đến sự xuất hiện của những cái cá biệt dị dạng và khiếm khuyết vốn thiếu dấu hiệu phân biệt về loài của chúng, không thể biện minh cho “Sự TẤT YẾU” của nội dung của nó.

Kant cho rằng định nghĩa triết học không thể tiến hành bằng giống và sự dị biệt về loài (genus and differentia) như những định nghĩa sinh học, cũng không thể tiến hành như những định nghĩa toán học là tạo ra một khái niệm; trái lại, chúng tiến hành bằng cách mang lại một sự phân tích, trình bày hay giải thích (Erklärung) cho một khái niệm đã có. Kết quả là, theo Kant, khác với nhà toán học, triết gia không nên bắt đầu bằng các định nghĩa, như trường hợp Spinoza: các định nghĩa chung cuộc đến vào lúc sau cùng, chứ không phải ở khởi điểm (PPLTTT B758-9). Hegel đồng ý với điều này trên một số phưong diện, nhưng không đồng ý trên các phưong diện khác:

1. Hầu hết những KHÁI NIỆM triết học đều không hợp với lối định nghĩa bằng giống và sự dị biệt về loài.

2. Thậm chí nếu một định nghĩa như thế là có thể có đi nữa, nó cũng không cho thấy “sự tất yếu” của khái niệm hay của định nghĩa đã được mang lại cho nó.

3. Điều này chỉ có thể được chỉ ra bằng việc rút ra hay “diễn dịch” khái niệm từ các khái niệm khác, chẳng hạn khái niệm về TÍNH HÔ TƯƠNG là được rút ra từ khái niệm về TÍNH NHÂN QUẢ.

4. Nhưng việc nghiên cứu về một khái niệm như thế không kết luận bằng một định nghĩa rõ ràng về nó, vì khái niệm phát triển xuyên suốt sự xử lý của Hegel về nó và rốt cục chuyển sang một khái niệm khác, như tính nhân quả chuyển sang thành tính hỗ tưong. Định nghĩa về khái niệm là nghiên cứu về toàn bộ diễn trình PHÁT TRIỂN chứ không phải về bất kỳ giai đoạn riêng lẻ nào của nó. Hegel cũng ghét việc bắt đầu Lô-gíc học bằng một định nghĩa về Lô-gíc học, vì ông tin rằng một định nghĩa như thế ắt chỉ đạt đến một khảo sát tổng quan về những HÌNH DUNG (Vorstellungen) hiện hành về Lô-gíc học mà thôi. Để tìm ra được Lô-gíc học (hay toán học) là gì, ta phải đi theo diễn trình của nó. Nhất quán với điều này, ông lập luận rằng định nghĩa (và các tiên đề) mà Spinoza đã dùng để bắt đầu cuốn Ethics [Đạo đức học] là không thể hiểu được cho đến khi ta thấy những gì được rút ra từ chúng.

5) Triết học không kiến tạo những khái niệm của mình cũng không phân tích những khái niệm có sẵn từ trước. Nó không phân tích một biểu tượng đã có hay đánh giá sự nghiên cứu của nó về một khái niệm bằng sự phù hợp của nó với một biểu tượng như thế, với từ nguyên học hay với “những sự kiện của ý thức” (tức sự hiển nhiên của trực quan - một cụm từ phổ biến thời ông, nhất là nơi J. E Fries). Triết học chỉ đơn giản cho thấy mức độ của sự phù hợp với những quan niệm thông thường về những khái niệm như thế khi nó dẫn xuất và “tái kiến tạo”.

Trong một bàn luận về định nghĩa trong THPQ §2, Hegel lưu ý rằng các luật gia La Mã đã cảnh báo rằng “mọi định nghĩa đều nguy hiểm”, vì một định nghĩa rõ ràng cho một khái niệm có thể phơi bày những đặc điểm “MÂU THUẪN” của những định chế hiện tồn. Chẳng hạn, một định nghĩa về con người ắt loại trừ người nô lệ ra khỏi phạm vi của khái niệm (điều này là không thể) hoặc vạch trần rằng nô lệ, dù là người, đã bị đối xử theo những cách vi phạm khái niệm con người. Điều này nhất quán với quan niệm của Hegel rằng một khái niệm, và do đó, một định nghĩa, không đơn giản ghi lại những đặc điểm chung cho tất cả những gì được thâu gồm dưới nó. Các sự vật (chẳng hạn một người nô lệ) thường không thỏa ứng với khái niệm vốn chủ yếu áp dụng cho họ (chẳng hạn khái niệm về con người). Trong khi một con người đã phát triển đầy đủ là tự do CHO MÌNH, thì một nô lệ chỉ tự do Tự MÌNH. Một người cổ đại biện hộ cho chế độ nô lệ, như Aristoteles chẳng hạn, hẳn sẽ trả lời rằng một số người là “nô lệ tự nhiên”, vì họ chỉ tư duy ở một mức độ thấp và vì thế không thỏa ứng đặc tính của tính người trọn vẹn, tức phải có tư duy lý tính: một thành viên cấp thấp của một loại hình không nhất thiết nhận được sự đối xử thích đáng như những thành viên không phải cấp thấp. Có lẽ Hegel sẽ đáp trả điều này rằng: 1) Không có gì cho thấy rằng bất kỳ chế độ nô lệ đang có nào đã nô lệ tất cả những ai, và chỉ những ai, theo quan niệm của Aristoteles, vốn là những nô lệ tự nhiên cả; 2) không có nô lệ tự nhiên nào hết, vì (năng lực của ta dùng để) tư duy là đang phát triển một cách cố hữu và nội tại và không thể bị đóng băng bởi tự nhiên ở mức độ thấp; nhưng 3) vì nô lệ có thể, do một số hoàn cảnh, chỉ tư duy ở mức độ thấp - và cũng vì Hegel ngại ngùng trong việc phê phán HIỆN THựC - nên 1) và 2) không có nghĩa sự nô lệ, bất kỳ khi nào và bất kỳ ở đâu nó tồn tại, PHẢI bị xóa bỏ ngay lập tức. Những định nghĩa đơn độc là nguy hiểm như các luật gia đã nghĩ, là điều không rõ ràng.

Quan niệm của Hegel về định nghĩa, có thể đối chiếu hữu ích với nhận định của Nietzsche về TRỪNG PHẠT: “mọi khái niệm mà toàn bộ tiến trình về mặt kí hiệu học đều tập trung vào nó thì lẩn tránh định nghĩa”.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Definition /[defini'tsiom], die; -, -en/

sự định nghĩa; lời định nghĩa (Begriffsbildung, Begriffsbestimmung, Erklärung);

Definition /[defini'tsiom], die; -, -en/

minh định;

dogmatische Definition : minh định tín lý.

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Definition

définition

Definition

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Definition /í =, -en/

sự] xác định, định nghĩa.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Definition /f/M_TÍNH/

[EN] setup

[VI] sự thiết lập

Definition /f/Đ_TỬ/

[EN] definition

[VI] độ nét (số đo mức chi tiết của ảnh)

Definition /f/Đ_TỬ/

[EN] definition

[VI] sự xác định (xử lý dữ liệu)

Definition /f/TOÁN/

[EN] definition

[VI] định nghĩa

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Definition

definition

Metzler Lexikon Philosophie

Definition

Bestimmung eines Begriffs bzw. Festlegung oder Festsetzung der Bedeutung eines sprachlichen Ausdrucks. Dabei wird der zu definierende Ausdruck als Definiendum, der definierende als Definiens bezeichnet. D.en sind ein unverzichtbarer Bestandteil wissenschaftlicher Methode mit dem Ziel, sprachliche Ausdrücke für Forschungszwecke hinreichend genau zu charakterisieren. Wird die bereits akzeptierte Bedeutung eines sprachlichen Ausdrucks angegeben, spricht man von einer feststellenden oder deskriptiven D. (»Wasser ist H2O«), soll dagegen eine Vereinbarung zur Verwendungsweise eines Ausdrucks getroffen werden, handelt sich um eine festsetzende oder stipulative D. (»eine Sekunde ist das 9192631770fache der Periodendauer der dem Übergang zwischen den beiden Hyperfeinstrukturniveaus des Grundzustandes von Atomen des Nuklids 133Cs (Cäsium) entsprechenden Strahlung«). Nur deskriptive D.en können wahr oder falsch sein, stipulative D.en können jedoch nach ihrer Angemessenheit beurteilt werden (Adäquatheitsbedingung). Näher unterscheidet man bei D.en (1) explizite D.en, bei denen ein Gegenstandsausdruck durch Identität (»∅:= {x: x≠x}«) und ein Prädikatausdruck durch eine materiale Äquivalenz (»Eine Person hat Fieber genau dann, wenn ihre Körpertemperatur 38 °C oder mehr beträgt«) eingeführt wird und die v.a. von impliziten D.en abgegrenzt werden. Für die Korrektheit expliziter D.en müssen mehrere Bedingungen erfüllt sein, die sich zusammenfassen lassen unter dem Gebot der Eliminierbarkeit, wonach, grob formuliert, das Definiendum jederzeit durch das Definiens ohne Bedeutungsverlust ersetzbar ist, und dem Gebot der Nichtkreativität, das, semantisch ausgedrückt, die Beweisbarkeit neuer Wahrheiten auf der Grundlage der D. verbietet. Zu den impliziten D.en zählen (2) D.en durch Postulate, bei denen sprachliche Ausdrücke oder Begriffe implizit durch die Angabe von Axiomen oder Postulaten bestimmt werden (»Eine Halbgruppe ist eine nichtleere Menge G zusammen mit einer zweistelligen Operation # auf G, so dass a#(b#c) = (a#b)#c für alle a, b, c aus G«), sowie (3) Kontextdefinitionen, die kein Synonym für das Definiendum liefern, aber die bedeutungserhaltende Ersetzung von Aussagen, die das Definiendum enthalten, durch solche, die es nicht enthalten, ermöglichen. Ein bekanntes Beispiel dafür ist Russells Kennzeichnungstheorie, die die Paraphrasierung von Kennzeichnungstermen durch gleichzeitig all- und existenzquantifizierte Aussagen erlaubt. Für formale Zwecke besonders bedeutsam sind ferner (4) induktive D.en, die Mengen oder Bereiche durch einen induktiven, also schrittweisen Prozess bestimmen, der von Anfangselementen ausgehend den gesamten Bereich durch die (endlich) iterierte Anwendung vorbestimmter Operationen erzeugt. Induktiv definiert ist z.B. die Menge der Formeln einer formalen Sprache, wobei die sog. Atomformeln die Anfangselemente bilden und sich die Menge der Formeln aus den Verknüpfungen bereits definierter Formeln durch die logischen Konstanten ergibt. Eng verwandt mit induktiven D.en sind (5) rekursive D.en, die sich von ersteren allerdings dadurch unterscheiden, dass sie einen Begriff oder Ausdruck über einem seinerseits induktiven Bereich bestimmen. Ein bekanntes Beispiel ist die D. der Addition auf der induktiv definierten Menge der natürlichen Zahlen (»x+0=x; x+Nachfolger(y) = Nachfolger(x+y)«). Von wissenschaftstheoretischem Interesse sind (6) bedingte D.en, bei denen die D. nur unter einer bestimmten Bedingung anwendbar ist. Sie finden z.B. Anwendung bei der D. von sog. Dispositionsprädikaten (»zerbrechlich«). Weitere bekannte Arten von D.en sind (7) partielle D.en, bei denen keine notwendigen und hinreichenden Bedingungen für die Ersetzbarkeit des Definiendums angegeben werden (»wenn ein Lebewesen ein Vogel ist, dann hat es Flügel«) und zu denen auch D.en durch Beispiele zählen (»Farben sind z.B. Rot, Blau, Grün, Gelb...«), ferner (8) die von P. Bridgman eingeführten operationalen D.en, denen zufolge die Bedeutung eines wissenschaftlichen Begriffs in den Methoden und Verfahren seiner Untersuchung besteht. So ergibt sich z.B. nach Bridgman die Bedeutung des Längenbegriffs operational aus den für Längenmessung verwendeten Verfahren. Diese, in den zwanziger Jahren entstandene Auffassung konnte sich allerdings nicht durchsetzen. Von philosophischem Interesse sind weiterhin die von C. L. Stevenson beschriebenen (9) persuasiven D.en, die eine begriffliche Bestimmung mit dem Ziel der Beeinflussung unter bewusster Verwendung emotionaler Aspekte vornehmen (»Abtreibung ist die grausame Ermordung wehrlosen ungeborenen Lebens«).

Mit diesen Unterscheidungen wird im Wesentlichen die traditionelle Unterteilung der D.en in Real- und Nominaldefinitionen abgelöst. Realdefinitionen werden verstanden als Wesenserklärungen. Dies geschieht einer durch Aristoteles begründeten Auffassung zufolge für einen Begriff durch Angabe der nächsthöheren Gattung sowie der spezifischen Differenz zu anderen Arten (»der Mensch ist ein vernünftiges Lebewesen«). Nominaldefinitionen setzen dagegen lediglich Wortbedeutungen fest. Dies wird von Leibniz dahingehend verstanden, dass nur Realdefinitionen auch über die Möglichkeit eines Begriffs Aufschluss geben, während Nominaldefinitionen nur Identifikationsmerkmale liefern und offenlassen, ob das Definierte in den Bereich des Möglichen fällt.

UM

LIT:

  • I. Copi: Introduction to Logic. New York 61982
  • R. Kleinknecht: Grundlagen der modernen Definitionstheorie. Knigstein 1979
  • E. v. Savigny: Grundkurs im wissenschaftlichen Definieren. Mnchen 1970
  • P. Suppes: Introduction to Logic. Princeton 1957.