TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

ngôn ngữ

ngôn ngữ

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học HEGEL
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tiếng nói

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cách nói

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lời nói

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thành ngừ học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đặc ngữ học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thành ngũ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đặc ngữ.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngữ nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nghĩa của từ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngữ nghĩa học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngữ ý học.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thành ngữ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đặc ngữ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cách biểu hiện

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cách diễn đạt

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thổ ngữ.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

từ nguyên học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngữ nguyên học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tù nguyên

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngũ nguyên

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngũ nghĩa

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngữ ý học

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lối văn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

văn phong

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

văn pháp

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cách hành văn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lối hành văn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thể văn

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

văn thể

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

văn từ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

ngôn từ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tiéng nói

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tiếng.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

PLC

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Tiếng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

1. Ngôn

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ý niệm

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

lời 2. Thánh ngôn

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thánh đạo

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

đạo .<BR>alethes ~ Lời thật

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Ngôi lời chân thực<BR>incarnate ~ Ngôi lời xuống thế

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Ngôi lời hóa th

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngôn tự<BR>~ cordis Ngôn ngữ nội tâm

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tiếng nói tâm hồn<BR>~ et sacramentum Ngôn ngữ và Bí tích<BR>~ fidei Tiếng nói Đức Tin

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngôn ngữ niềm tin<BR>~ interius Ngôn ngữ nội tại.<BR>~ mentis

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Địa lý

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Xử lý dữ liệu

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Xử lý văn bản

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

phương ngữ miền trung Đức và thượng Đức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thần ngôn thần đạo

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thiên đạo

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
1. ngôn ngữ

1. Ngôn ngữ

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngôn từ

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

chữ

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

tiếng 2. Thánh Ngôn

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đạo Ngôn

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đạo<BR>audible ~ Ngôn ngữ có thể nghe thấy được

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khả thính chi đạo .<BR>incarnate ~ Thánh Ngôn giáng phàm

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Con Thiên Chúa làm Người

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đạo thành Nhục Thân

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Anh

ngôn ngữ

language

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

straight language

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

 language

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

PLC

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

programming languages

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Logos

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

verbum

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

linguistic geography

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

linguistic data processing

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

linguistic word processing

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
1. ngôn ngữ

word

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đức

ngôn ngữ

Sprache

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học HABERMAS
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Zunge

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sprachlich

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

ngôn ngữ

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Orthoepie

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Idiomatik

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Semantik

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Idiom

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Wortforschung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

SPS

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Sprachen

 
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Geographie

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

linguistische

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Datenverarbeitung

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Textverarbeitung

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Langue

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Mittelhochdeutsche

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Logos

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Pháp

ngôn ngữ

Géographie

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

linguistique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Informatique

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Traitement de texte

 
Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt
Chuyên ngành CN Hóa (nnt)

XML erweiterbare Auszeichnungssprache

XML Ngôn ngữ bậc cao tự mở rộng

Chuyên ngành KT ô tô & xe máy (nnt)

v Bewusstes Wahrnehmen der verbalen und nonverbalen Signale des Gesprächspartners

Chủ động tiếp thu những tín hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của người đối thoại

Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

282 Programmiersprachen

282 Ngôn ngữ lập trình

Übersicht zu Programmiersprachen

Tổng quan về ngôn ngữ lập trình

4. Nennen Sie die drei Programmiersprachen für die Programmierung einer SPS!

4. Hãy nêu tên ba loại ngôn ngữ cho lập trình PLC!

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

die menschliche Sprache

ngôn ngữ loài người

(jmdm.) bleibt die 2494

etw. mit tausend Zungen predigen (geh.)

nói đi nói lại nhiều lần chuyện gì.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

eine zeitgen össische Sprache

ngôn ngữ hiện đại; 2. tiếng nói, cách nói, lối văn, văn phong, văn pháp, cách hành văn, lối hành văn, thể văn, văn thể, văn từ; 3. ngôn từ, tiéng nói, tiếng.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Langue /['la:ga, frz. la:g], die; - (Sprachw.)/

ngôn ngữ; tiếng nói;

Sprache /[’Jpra:xo], die; -, -n/

(o Pl ) tiếng nói; ngôn ngữ;

ngôn ngữ loài người : die menschliche Sprache : (jmdm.) bleibt die 2494

Zunge /[tsurp], die; -, -n/

(dichter ) ngôn ngữ; tiếng nói; cách nói (Sprache);

nói đi nói lại nhiều lần chuyện gì. : etw. mit tausend Zungen predigen (geh.)

Mittelhochdeutsche /das/

ngôn ngữ; phương ngữ miền trung Đức và thượng Đức;

Logos /der; -, Logo! (PL selten)/

(antike Philos , Rhet) lời nói; ngôn ngữ; thần ngôn (o PI ) (antike Philos ) thần đạo; thiên đạo;

Thuật ngữ-Giáo dục đại học-Đức Anh Pháp Việt

Địa lý,ngôn ngữ

[DE] Geographie, linguistische

[EN] linguistic geography

[FR] Géographie, linguistique

[VI] Địa lý, ngôn ngữ

Xử lý dữ liệu,ngôn ngữ

[DE] Datenverarbeitung, linguistische

[EN] linguistic data processing

[FR] Informatique, linguistique

[VI] Xử lý dữ liệu, ngôn ngữ

Xử lý văn bản,ngôn ngữ

[DE] Textverarbeitung, linguistische

[EN] linguistic word processing

[FR] Traitement de texte, linguistique

[VI] Xử lý văn bản, ngôn ngữ

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

language

Tiếng, ngôn ngữ

Logos

1. Ngôn, ý niệm, ngôn ngữ, lời 2. Thánh ngôn, thánh đạo, đạo [ chỉ Thiên Chúa Ngôi Hai vì Ngài đã diễn đạt tư tưởng của Thiên Chúa, có sức sáng tạo và giáo huấn].< BR> alethes ~ Lời thật, Ngôi lời chân thực< BR> incarnate ~ Ngôi lời xuống thế, Ngôi lời hóa th

verbum

Ngôn ngữ, lời nói, ngôn tự< BR> ~ cordis Ngôn ngữ nội tâm, tiếng nói tâm hồn< BR> ~ et sacramentum (L.) (word and sacrament) Ngôn ngữ và Bí tích< BR> ~ fidei (L.) Tiếng nói Đức Tin, ngôn ngữ niềm tin< BR> ~ interius (L.) (inner word) Ngôn ngữ nội tại.< BR> ~ mentis

word

1. Ngôn ngữ, ngôn từ, chữ, tiếng 2. (the Word) Thánh Ngôn, Đạo Ngôn, Đạo< BR> audible ~ Ngôn ngữ có thể nghe thấy được, khả thính chi đạo [chỉ đạo lý được tuyên giảng].< BR> incarnate ~ Thánh Ngôn giáng phàm, Con Thiên Chúa làm Người, Đạo thành Nhục Thân [chỉ

Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

SPS,Sprachen

[EN] PLC, programming languages

[VI] PLC, ngôn ngữ

Từ điển triết học HEGEL

Ngôn ngữ [Đức: Sprache; Anh: language]

Hầu hết các tác phẩm của Hegel đều có các bình luận về ngôn ngữ, và trên hết, trong lối viết của mình ông rất ý thức đến ngôn ngữ ông dùng và quan hệ của nó với ngôn ngữ thông thường, điều mà chúng ta không thấy ở Kant. (Herder và Hamann phê phán Kant là không chú ý đến ngôn ngữ). Tuy nhiên, ngôn ngữ lại có một vị trí rõ ràngìằ tương đối nhỏ trong hệ thống của Hegel. Có vài lý do cho điều này: (1) Ngôn ngữ, giống như phép biện chứng (mà Hegel cũng ít dành cho sự quan tâm minh nhiên), gắn liền với toàn bộ triết học, và vì thế không dễ gì quy nó vào một bộ phận đặc biệt nào của triết học được. (2) Theo quan niệm của Hegel, một câu hỏi được nhiều triết gia quan tâm (Rousseau, Herder, Fichte, V.V.), tức câu hỏi về ngôn ngữ ra đời như thế nào, là không thể trả lời, vì LỊCH sử tiền giả định việc chép sử, và điều này lại tiền giả định ngôn ngữ. Lịch sử quan tâm đến các sản phẩm lịch sử của TINH THẦN, chứ không quan tâm đến ngôn ngữ, tức sự diễn đạt trực tiếp của tinh thần nằm trong tất cả những sản phẩm ấy. (3) Câu hỏi nữa được quan tâm hiện nay là về những sự khác nhau và giống nhau của các ngôn ngữ, nhưng đây không phải là quan tâm chính của Hegel, vì nó là một vấn đề dành cho việc nghiên cứu thường nghiệm (giống như nghiên cứu của w. von Humbolt), và vì Hegel quan tâm nhiều hon đến các phạm trù lô-gíc học được hiện thân, ít nhiều trọn vẹn và minh nhiên, trong tất cả các ngôn ngữ.

Ngôn ngữ được xem xét trong BKTIII §458-64 dưới các đề mục trí TƯỞNG TƯỢNG và KÝ ỨC: ngôn ngữ xuất hiện (nhưng không nhất thiết trong lịch sử) từ nỗ lực của cái BÊN TRONG, [tức là] cái “hốc” (Schacht) tối tăm của trí tuệ (Intelligenz), nhằm tìm ra một sự hiện thân đầy đủ, khách quan, BÊN NGOÀI cho những BIỂU TƯỢNG phổ biến của nó, vốn không phụ thuộc thường xuyên vào TÍNH CÁ BIỆT của TRựC QUAN cảm tính. Trí tưởng tượng (Phantasie), cái TRUNG GIỚI giữa biểu tượng và trực quan, mang lại các hình ảnh (Bild), dù các hình ảnh ấy, mang lại cho trí tuệ sự độc lập nào đó của trực quan, là thoáng qua và chủ quan, nhưng cũng chứa đựng một yếu tố cảm tính bản chất. Bước tiếp theo là phải hình dung một biểu tượng bằng một biểu trưng (Symbol). Thực thể được lựa chọn để biểu trưng hóa một biểu tượng vẫn duy trì một đặc điểm thường nghiệm bản chất làm cho nó thích hợp để phục vụ như một biểu trưng: chẳng hạn, sức mạnh, hay sức mạnh của Jupiter, có thể được biểu trưng bằng một con đại bàng, vì đại bàng là (tức, được xem là) mạnh mẽ, chứ không phải, chẳng hạn, bằng một con bồ câu. Trí tưởng tượng còn được ban cho một sự tự do lớn hon nữa để thoát khỏi trực quan bởi việc tiếp thu một ký hiệu (Zeichen), vốn hoàn toàn có tính quy ước: chẳng hạn một lá cờ phải có một số đặc điểm thường nghiệm, nhưng những đặc điểm của nó không bị quy định bởi những gì nó biểu đạt. Hegel thường hình dung (hay biểu trưng hóa) ký hiệu bằng hình kim tự tháp, vốn mang trong mình một “linh hồn xa lạ”, tức một xác ướp, mà kim tự tháp không có sự tương đồng nào với nó (BKTIII, §458). Linh hồn này có thể ví với ý nghĩa (Bedeutung) của một ký hiệu. Bước cuối cùng là việc tạo ra các âm thanh để tạo nghĩa cho các biểu tượng: không những các đặc điểm thường nghiệm của âm thanh là hoàn toàn có tính quy ước về nghĩa của chúng, mà bản thân những âm thanh còn mang tính thời gian và phù du hơn là mang tính không gian, bền bỉ. Điều này thể hiện một sự giáng cấp hơn nữa đối với trực quan cảm tính.

Tên gọi là một trực quan do trí tuệ tạo ra, được nối kết với nghĩa của nó. Thoạt đầu, sự nối kết này là cá biệt tạm thời nên sự nối kết là “ngoại tại”. Nhưng KÝ ức nội tại hóa hay HỒI TƯỞNG tính ngoại tại này: nó biến sự nối kết cá biệt này thành một sự nối kết phổ biến và thường trực. Tên gọi không còn là một trực quan (tức một ký hiệu) nữa mà trở thành một biểu tượng (nghĩa là một thể loại), mà nghĩa của nó cũng là một biểu tượng. Hai biểu tượng này, biểu tượng về sự vật và biểu tượng về tên gọi [của sự vật ấy], vì thế được hòa trộn vào nhau. Chúng ta không cần hình ảnh hay trực quan nào để suy tưởng về một con sư tử: “Nó nằm ngay trong tên gọi mà chúng ta đang suy tưởng” (§462). Do đó trí tuệ vừa được nội tại hóa hoàn toàn (nó chỉ dựa vào sản phẩm trừu tượng của chính nó, tức tên gọi, và thoát khỏi chất liệu thường nghiệm) vừa được ngoại tại hóa hoàn toàn (nó tiếp cận trực tiếp các đối tượng, không cần trung giới bằng các thực thể cảm tính, tâm lý học). (Điều này minh họa phép BIỆN CHỨNG của BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI).

Cho đến đây thì các từ mới chỉ được nhóm lại với nhau dựa theo các cảm giác, các biểu tượng hay các tư tưởng hiện thời của ta. Nhưng bây giờ, sau cùng, chúng được sắp xếp trong một hệ thống hình thức, một cách độc lập với việc chúng quy chiếu đến các đối tượng bên ngoài. Vì thế ngôn ngữ trở nên “ngoại tại” đối với trí tuệ vốn sinh ra nó, tự biến chính mình thành “không gian phổ biến của các tên gọi xét như là các tên gọi... sức mạnh ấy bao trùm nhiều tên gọi khác nhau, một mối dây ràng buộc trống rỗng nhưng cố định chuỗi tên gọi trong chính mình và giữ chúng trong trật tự vững chắc” (BKTIII, §463). Ở đây Hegel nghĩ đến vài điều: đối với bất kỳ người nói nào đó thì ngôn ngữ là một hệ thống khách quan để họ học và tuân theo; khi các chữ và nghĩa của chúng hoàn toàn quen thuộc với ta thì năng lực của ta tha hồ sử dụng chúng bất chấp, thậm chí là vi phạm, các nghĩa của chúng; và những lợi thế của phưong pháp học vẹt là tước đoạt khỏi tinh thần các nội dung riêng tư của nó và chuẩn bị cho nó thu nhận những chất liệu khách quan. (GIÁO DỤC chứa đựng sự THA HÓA).

Phù hợp với tính đối ứng qua lại giữa cái bên trong và cái bên ngoài, Hegel phủ nhận rằng chúng ta có thể suy nghĩ mà không cần từ ngữ: “Chúng ta biết về các tư tưởng của mình, chúng ta có các tư tưởng xác định, hiện thực, chỉ khi ta mang lại cho chúng hình thức của tính khách quan, hình thức của sự phân biệt với tính bên trong [tính nội tại] của mình, vậy nên mang lại cho chúng hình thái của tính ngoại tại, và hình thái của tính ngoại tại như thế là mang theo dấu ấn của tính bên trong cao nhất”. (BKTIII, §462A).

Trong BKTIII §459, Hegel thảo luận về nói và viết. Âm thanh được phát biểu ra (Ton) là lời nói (Rede), và hệ thống lời nói là ngôn ngữ (Sprache, từ động từ sprechen, nghĩa là “nói”). Ngôn ngữ có hai phưong diện:

1. Chất liệu ngữ âm có lẽ ban đầu nảy sinh từ sự mô phỏng các âm thanh tự nhiên, chẳng hạn như tiếng xào xạc và cót két, nhưng điều này không quan hệ gì với một ngôn ngữ đã phát triển. Chất liệu Sổ đẳng của nó phụ thuộc vào “cử chỉ” (Gebärde) mà ta tạo ra bằng cách cử động môi, vòm miệng và lưỡi. Bất kỳ nghĩa ban đầu nào mà những đặc điểm ngữ âm này, với các nguyên âm và phụ âm, từng có đều bị đè nén bởi sự sử dụng chúng trong các ký hiệu.

2. Tưong phản với chất liệu ngữ âm, phưong diện hình thức, tức ngữ pháp, là sản phẩm của việc GIÁC TÍNH du nhập các phạm trù vào trong ngôn ngữ. “Bản năng lô-gíc” này đã hoạt động từ ngay lúc khởi đầu, vì ngôn ngữ của các dân tộc ít văn minh hon có một ngữ pháp được phát triển hon, chuyên chở những khác biệt vốn không có trong những ngôn ngữ của các dân tộc văn minh hon. Hegel trích dẫn cuốn über den Dualis [Vể sự lưỡng phân], 1828) của Humboldt để ủng hộ quan niệm (về bản chất là đúng) này. (Vico và Herder lại lập luận rằng các ngôn ngữ nguyên thủy thì đon giản).

Trong nghiên cứu của ông về ngôn ngữ viết, Hegel lập luận rằng một chữ viết theo bảng chữ cái abc, mà các chữ cái của nó là những ký hiệu cho các yếu tố của các ký hiệu âm thanh của ngôn ngữ nói, là cao cấp hon một chữ viết tượng hình, vốn biểu đạt trực tiếp các biểu tượng. Đây là một vấn đề được quan tâm vào thời ấy, vì Leibniz đã đề xuất một hệ chữ viết trực tiếp thể hiện các ý niệm và các quan hệ giữa chúng, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của chữ tượng hình. (Leibniz chịu ảnh hưởng của chữ Trung Hoa, hon là chữ Ai Cập). Các phản bác của Hegel với hệ chữ viết tượng hình là như sau:

(a) Leibniz tin rằng một ngôn ngữ như vậy không những sẽ phục vụ cho tính minh bạch lô-gíc học, mà còn cho sự truyền thông dễ dàng hon giữa các dân tộc và đặc biệt là giữa các học giả. Nhưng lịch sử cho thấy rằng các chữ viết theo thứ tự abc đã được du nhập vì chúng mới làm cho sự truyền thông hàng ngày trở nên dễ dàng hon.

(b) Nếu ký hiệu cho một biểu tượng phải hiện thân sự phân tích về nó, ta ắt sẽ phải cần thay đổi các ký hiệu bất kỳ khi nào ta thay đổi sự phân tích về biểu tượng. Điều này xảy ra ngay cả trong trường hợp các chất hóa học (vốn được đặt tên dựa trên các nguyên tắc của chữ tượng hình), nhưng thường xảy ra hon trong trường hợp các biểu tượng tinh thần. Chữ tượng hình chỉ thích hợp cho các xã hội tĩnh tại như Trung Hoa.

(c) Chữ viết theo bảng chữ cái abc tác động lên ngôn ngữ nói, giúp đơn giản hóa và hệ thống hóa sự phát âm của nó. Một hệ chữ viết tượng hình không thể có hiệu ứng này; do đó tiếng nói của người Trung Hoa là cực kỳ phức hợp, chứa nhiều từ đồng âm chỉ có thể phân biệt bằng những khác biệt về trọng âm hay âm thanh vốn khó phân biệt đối với người nước ngoài.

(d) Không giống chữ tượng hình, chữ viết theo bảng chữ cái abc cho phép ỉa phản tư về từ được nói ra: từ các chữ được viết ra từ lời nói, chúng ta có thể nhìn thấy cách nó được cấu thành từ một ít các yếu tố đơn giản. Hegel cũng quy các lợi thế về sư phạm cho việc học một hệ thống hình thức như một hệ thống chữ cái abc.

(e) Giống ngôn ngữ nói, chữ viết theo bảng chữ cái abc bảo tồn sự thống nhất của chữ, vì thế là một tên gọi, vì nó biểu thị biểu tượng nào đó như một toàn bộ, chứ không dựa vào các nghĩa của các bộ phận cấu thành của nó. Đối với người nói thông thường, một chữ là một thực thể đơn giản, chứ không phải là một tập hợp của các chữ khác. Xét như vậy, nó quy chiếu trực tiếp đến các sự vật, trong khi theo các nguyên tắc của chữ tượng hình thì sự tiếp cận và quy chiếu của ta về các sự vật là được trung giới bởi các biểu tượng. Quan điểm của Hegel cũng sẽ áp dụng được vào quan niệm của Mill rằng một chữ chẳng hạn như “horse” có nghĩa là “ngựa” nhờ vào việc nó biểu thị các đặc điểm mà tất cả, và chỉ duy, ngựa có; và áp dụng vào quan niệm của Russell rằng một tên gọi chẳng hạn như “Hegel” biểu thị ông Hegel dựa vào mối liên hệ của nó với một sự mô tả xác định chỉ được áp dụng vào Hegel mà thôi.

(f) Nghĩa của một chữ có thể được phân tích, nhưng các đặc điểm lô-gíc của nó và các mối liên hệ qua lại của chúng không thể được trình bày một cách đầy đủ bằng các quan hệ không gian bên ngoài của những chữ viết tượng hình hay của các biểu trưng lô-gíc và toán học. Trong sự nối kết này, Hegel thường công kích quan niệm của phái Pythagoras rằng toán học cung cấp một ngôn ngữ thích đáng cho triết học.

Derrida, trong bài “The pit and the pyramid" [Cái hô và kim tự tháp], phê phán các niềm tin của Hegel rằng ngôn ngữ là bản chất đối với tư tưởng, rằng ngôn ngữ nói là có trước ngôn ngữ viết và rằng các chữ viết theo bảng chữ cái abc cao hơn các chữ viết tượng hình. Tư tưởng của Hegel được định hướng đến ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ nói: ông trình bày tốt nhất khi ông giảng chứ không phải trong các sách của ông. Ông cũng đánh giá không chính xác, chẳng hạn, rằng tư duy âm nhạc và âm nhạc không có một nội dung có thể diễn đạt bằng các từ. Dù vậy, ông đánh giá thấp các đặc điểm cảm tính thuần túy của ngôn ngữ và lập luận, chẳng hạn, rằng ta có thể dịch thơ mà không đánh mất gì nhiều.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Từ điển triết học HABERMAS

Ngôn ngữ [Đức: Sprache; Anh: Language]

Trong những tác phẩm thời kỳ đầu, và đặc biệt trong bối cảnh của lý thuyết về những lợi ích hay quan tâm về nhận thức/cognitive interests, Habermas xem việc sử dụng ngôn ngữ như là một trong những đặc trưng cơ bản của những gì làm nên con người, bên cạnh khả năng lao động/labour và sự tương tác/interaction xã hội (Habermas, 1971a). Trong các tác phẩm hậu kỳ, sau điều mà ông coi là ‘bước ngoặt ngôn ngữ học’ (linguistic-turn) trong công trình của mình, ngôn ngữ thậm trí đóng vai trò nền tảng hơn trong chừng mực nó được xem như là cơ sở cho việc tổ chức đời sống xã hội và cho sự phát triển của cảm thức của cá nhân về căn cước của con người mình (Habermas, 1984a & 1987).

Ngôn ngữ có vai trò phần nào hàm hồ trong lý thuyết của Habermas về những lợi ích hay quan tâm về nhận thức (cognitive interests). Khả năng sử dụng ngôn ngữ của con người được kết nối với các khoa học thông diễn, tức là các môn học vốn liên quan với vấn đề diễn giải các phát biểu bằng lời hay văn bản, và vấn đề diễn giải các hành động của con người. Bởi vì ngôn ngữ là phương tiện trung gian qua đó con người biểu đạt bản thân và tạo nên ý nghĩa cho các hành động và lời nói của người khác. Do đó, ngôn ngữ được gắn với khả năng giao tiếp của con người, và do vậy có thể hành động một cách có ý nghĩa. Tính có ý nghĩa nơi hành động của con người, đi cùng với nhu cầu diễn giải nó, vốn nhằm để phân biệt các khoa học xã hội với các khoa học tự nhiên. Các ngành khoa học tự nhiên giải thích các hiện tượng, bao gồm cả hành vi của các động vật, bằng các nguyên nhân. Các ngành khoa học xã hội, như sử học/history chẳng hạn, phải thấu hiểu các hành động/actions của con người, bởi vì các hành động như vậy là có ý nghĩa. Con người không hành động bằng lối tất định luận nhân quả mù quáng, mà đúng hơn vì các hành động của con người có ý nghĩa cho chính họ, và là một phản ứng trước ý nghĩa mà họ tìm thấy trong các hành động của người khác. Các hành động sẽ được hiểu, bởi cả bản thân người hành động lẫn người chứng kiến hành động, thông qua ngôn ngữ.

Tính hàm hồ nước đôi ở lý thuyết thời kỳ đầu của Habermas nảy sinh khi thừa nhận ngôn ngữ cũng quan trọng đối với hai đặc tính khu biệt khác của con người, lao động và sự tương tác. Trong khi lao động là năng lực cải biến môi trường, chẳng hạn bằng việc sử dụng các công cụ, sự khác biệt giữa việc cải biến môi trường của con người với hành vi của động vật không phải người—như con hải ly xây đập ngăn nước—nằm ở thực tế là con người hành động một cách có ý thức và có chủ tâm, trong khi con hải ly được cho là bị bản năng thôi thúc. Nó không có lựa chọn mà phải xây cái đập của mình theo cách mà bản chất của nó quy định. Tuy nhiên, bởi vì con người có ngôn ngữ, họ có thể khái niệm hoá và tư duy về môi trường của mình, và thao túng môi trường theo trí tưởng tượng của họ trước khi thao túng ngoài thực tế. Vì thế, lao động tiền giả định ngôn ngữ, nếu lao động phải được tự do và đầy trí tưởng tượng.

Tương tự, sự tương tác giữa người với người một lần nữa lại tiền giả định ngôn ngữ, chính xác là vì sự tương tác là thứ tự do và có ý nghĩa, và không được quy định một cách nhân quả. Con người có thể tương tác với nhau bởi vì họ có thể giao tiếp thông qua ngôn ngữ chung. Tuy nhiên, sự tương tác như vậy có thể bị làm hỏng hay bóp méo bởi sự mất cân bằng hay lạm dụng quyền lực. Ở giai đoạn này trong sự nghiệp của mình, Habermas cho rằng những sự lạm dụng như vậy có thể được phân tích thông qua quy chiếu đến ngôn ngữ. Những sự lạm dụng sẽ hoặc là không được để ý hoặc là sẽ được chịu đựng như thứ không thể tránh được hay lẽ tự nhiên, chính xác là vì không có ngôn ngữ khả dụng để nói rõ sự tổn hại và lạm dụng đang bị phạm vào. Các thành viên của nhóm bị áp bức có thể không có khả năng thông tri sự áp bức mình phải chịu đến người khác, vì những người khác có thể không nghe thấy hay không thể hiểu những gì được nói nếu những kẻ áp bức đã tiền giả định rằng những người bị áp bức là hạ đẳng (như những nô lệ châu Phi trước đây hay người Do Thái đối với những người bài Do Thái) hay là không có lý trí (như phụ nữ trong suốt phần lớn lịch sử châu Âu) và do vậy, không có khả năng truyền thông và khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc và hợp lý. Thiếu ngôn ngữ phù hợp thậm chí có thể ngăn chặn khả năng của người bị áp bức để khớp nối định vị hoàn cảnh của chính mình. Người nô lệ tiếp thu hình ảnh của ông chủ về bản thân mình với tư cách kẻ hạ đẳng về trí tuệ và chủng tộc, hay người phụ nữ chấp nhận rằng họ dễ xúc cảm và không có khả năng tư duy lý tính bền vững, nên sẽ không thể có cảm thức về những bất bình đẳng với hoàn cảnh chính bản thân mình.

Nếu ngôn ngữ có một vị trí phức hợp trong các tác phẩm thời kỳ đầu của Habermas, thì với các lý thuyết của ông về thuyết dụng hành phổ quát/universal pragmatics và hành động giao tiếp/communicative action phát triển từ những năm 1970 trở đi, cách tiếp cận của Habermas với ngôn ngữ trở nên rõ rệt hơn. Vai trò cơ bản mà việc sử dụng ngôn ngữ giữ trong mọi hoạt động của con người bây giờ trở thành chủ đề cốt lõi của các luận cứ của Habermas, và nhất là ông khám phá ra vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ trong sự xây dựng và duy trì các quan hệ xã hội. Trong khi Habermas trẻ chủ yếu chú tâm vào ngôn ngữ từ góc nhìn của thông diễn học, và vì thế vào các vấn đề về hành động có ý nghĩa của con người dựa vào sự diễn giải, thì Habermas thời kỳ trưởng thành tiếp cận vấn đề ngôn ngữ thông qua các ý tưởng được vay mượn từ triết học phân tích/analytic philosophy, và nhất là ý tưởng rằng ngôn ngữ được sử dụng không chỉ để truyền đạt thông tin mà còn để thực thi các hành động xã hội (xem hành động phát ngôn/speech acts). Chẳng hạn, khi tôi nói: ‘Tôi hứa sẽ có mặt ở rạp chiếu phim lúc 5 giờ’, tôi không đơn giản chỉ truyền đạt thông tin, mà đúng ra còn tạo nên giao ước xã hội với bạn, mối giao ước mà bạn kỳ vọng tôi sẽ đáp ứng hay bạn muốn biết lý do tại sao. Quan tâm của Habermas với ngôn ngữ do đó được đặt ở phạm vi mối quan tâm rộng hơn với điều mà ông gọi là ‘năng lực giao tiếp’ (communicative competence), tức là khả năng của con người, không chỉ chia sẻ thông tin có ý nghĩa mà còn tạo nên các mối quan hệ xã hội và thực thi sự tương tác xã hội với nhau.

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 language

ngôn ngữ

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Orthoepie /f = (/

1. (phépj chính âm, phát âm đúng; 2. chính âm học, chính âm pháp.

Idiomatik /f = (/

1. thành ngừ học, đặc ngữ học; 2. thành ngũ, đặc ngữ.

Semantik /f = (/

1. ngữ nghĩa, nghĩa của từ; 2. ngữ nghĩa học, ngữ ý học.

Idiom /n -s, -e (/

1. thành ngữ, đặc ngữ; 2. cách biểu hiện, cách diễn đạt (của một nhà văn); 3. thổ ngữ.

Wortforschung /f =, -en (/

1. từ nguyên học, ngữ nguyên học; 2. tù nguyên, ngũ nguyên; 3. ngũ nghĩa; 4.ngữ nghĩa học, ngữ ý học;

Sprache /f =, -n/

1. ngôn ngữ; die alten - n các ngôn ngữ cổ; eine zeitgen össische Sprache ngôn ngữ hiện đại; 2. tiếng nói, cách nói, lối văn, văn phong, văn pháp, cách hành văn, lối hành văn, thể văn, văn thể, văn từ; 3. ngôn từ, tiéng nói, tiếng.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Ngôn ngữ

[VI] Ngôn ngữ

[DE]

[EN]

Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt

Language

Ngôn ngữ

Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

ngôn ngữ

ngôn ngữ

sprachlich (a); Sprache f, Zunge f; ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ giao tiếp Umgangssprache f; ngôn ngữ học philologisch (a); Philologie f, Sprachwissenschaft f; ngôn ngữ hội thoại Umgangssprache f ngôn từ (văn) Wort n, Silbe f ngốn verschlingen vt, gierig essen vt, (ver)schlucken vt, schlingen vt

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Sprache /f/M_TÍNH/

[EN] language

[VI] ngôn ngữ

Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

language

ngôn ngữ

Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

straight language

ngôn ngữ