Không gian [Hy Lạp: kora; Latinh: spatium; Đức: Raum; Anh: space]
Xem thêm: Cảm năng học, Lực, Đối ứng không đống dạng (các), Trực quan, Siêu hình học, Không gian và Thời gian, Thời gian,
Trong quyển Vật lý học (Physics), Aristoteles khảo cứu một số “khó khăn có thể nảy sinh về bản tính cơ bản” của không gian (Những tác phẩm nền tảngcủa Aristoteles, Richard McKeon biên tập, 210a, 12), hướng những nhận xét phê phán của ông chống lại quan niệm của Platon về sự đồng nhất hóa không gian (hay cái chứa đựng, kora) với vật chất (hyle).
Khó khăn cơ bản trong việc lĩnh hội “bản tính cơ bản” của không gian nảy sinh từ việc không thể áp dụng sự phân biệt giữa chất thể và mô thức vào không gian, một đặc điểm được nêu bật qua sự vận động trong không gian, vì “trong chừng mực [không gian] tách rời với sự vật, nó không phải là mô thức: với tư cách (qua) cái chứa đựng, nó khác với vật chất” (sđd, 209b, 31). Aristoteles gợi ý rằng không gian là “ranh giới của vật chứa đựng, ở đó nó tiếp xúc với cái được chứa đựng” (sđd, 2121, 6), từ đó nối kết hai phương diện chất thể và mô thức của không gian vào trong ý niệm về ranh giới. Phần lớn tư duy về không gian về sau vẫn còn nằm trong phạm vi định nghĩa của Platon và Aristoteles, với những lập trường dao động giữa quan niệm của Platon xem không gian như một cái chứa đựng hoặc “cái bình chứa” các đối tượng đang vận động, và quan niệm của Aristoteles coi không gian như những ranh giới của một cái chứa đựng hoặc cái bình chứa. Sự khó khăn cơ bản được Aristoteles nhận diện đó vẫn tiếp tục tồn tại trong truyền thống triết học, và ở việc làm sao nhận rõ bản tính của không gian nếu nó không đồng nhất với chất thể hoặc mô thức.
Cách hiểu của Descartes về không gian nghiêng về lập trường của Platon, khi đồng nhất không gian với “quảng tính trong chiều dài, chiều rộng, và chiều sâu” (Descartes, Những nguyên lý triết học, V. R. Miller, R. p. Miller, Dordretch, D. Riedel dịch, tr. 46). Bằng cách xem quảng tính như bản thể vật chất, Descartes có thể xem sự thay đổi vị trí như cái gì phụ thuộc, và bảo lưu được sự đồng nhất giữa không gian và quảng tính: “ta gán sự thống nhất về loài cho quảng tính của không gian, sao cho khi vật thể, cái lấp đầy không gian, bị thay đổi, thì quảng tính của bản thân không gian không được xem là đã bị thay đổi mà vẫn là một và cùng một quảng tính” (sđd, tr. 44). Lập trường của Descartes làm nảy sinh một số khuynh hướng phê phán thú vị, tất cả được thể hiện nổi bật trong khảo cứu về không gian của Kant.
Một khuynh hướng, theo Newton, cắt đứt khỏi chủ trương đồng nhất hóa không gian với quảng tính của Descartes, bằng cách phân biệt không gian tuyệt đối và không gian tương đối. Không gian tuyệt đối là không gian của Thượng đế; không gian tương đối là không gian của tri giác con người: không gian tuyệt đối “không liên quan gì với bất cứ cái gì ngoại tại mà luôn đồng dạng và bất động. Còn không gian tương đối là một kích thước hay hạn độ di động nào đó của các không gian tuyệt đối; mà các giác quan của ta xác định nó qua vị trí của nó đối với các vật thể; và nó thường được hiểu là không gian bất động” (Newton, Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, tr. 8). Một lập trường khác, được đối thủ của Newton là Leibniz phát triển, phản bác cả lập trường của Descartes lẫn Newton khi cho rằng không gian, theo một nghĩa nào đó, là có tính bản thể; trong quyển “Thư từ với Clarke” (1715-16) ông lập luận rằng không gian thì tương đối, là một “trật tự các sự vật tồn tại đồng thời, được xét như là cùng tồn tại với nhau” (Leibniz, Bản thảo và thư từ triết học, Leroy E. Loemker, Dordrecht-Holland, D. Riedel dịch). Tuy nhiên, cái được không gian sắp đặt không đơn thuần là các sự vật tồn tại, mà là các bản thể siêu hình học hay các đơn tử (monads), và trật tự của chúng hoàn toàn tương thích với lý tính. Locke, cũng phê phán trường phái Descartes, coi không gian như một ý niệm đơn giản được biến thể thành những thước đo khoảng cách và thành những hình dạng. Theo Locke, hai nguồn suối của ý niệm về không gian là thị giác và xúc giác. Vì ông thấy rằng “bằng thị giác, con người lĩnh hội khoảng cách giữa các vật thể có màu sắc khác nhau, hay giữa các bộ phận của cùng một vật thể, điều đó đối với ông cũng hiển nhiên như mọi người thấy chính các màu sắc” (Locke, Luận về giác tính con người, tr. 80). Bằng cách coi không gian như một ý niệm đơn giản, Locke có thể tránh được những song đề phát sinh do chỗ coi không gian như một bản thể, dù là vật chất hay phi-vật chất (sđd, tr. 85).
Trong các bài viết tiền-phê phán của thập niên 1740 và thập niên 1750, tư duy của Kant về không gian chủ yếu nằm trong truyền thống phê phán Descartes của Leibniz. Trong quyển LS, ông phê phán nhận thức của Descartes về bản thể như quảng tính bằng cách biện luận, cùng với Leibniz, rằng một vật thể có một lực trước khi có quảng tính, và do vậy quảng tính ấy có thể được xem như tùy thể của lực. Từ quan điểm về lực bản thể này, Kant tiếp tục tuyên bố rằng “sẽ không có không gian và không có quảng tính, nếu các bản thể không có lực mà nhờ đó chúng có thể hoạt động bên ngoài bản thân chúng” (LS §9). Tính chất của các quy luật về lực bản thể “xác định tính chất liên kết và tổ hợp của cái đa tạp của chúng” (LS §10) vốn được thể hiện trong quảng tính và không gian ba chiều. Kant nói thêm rằng nếu Thượng đế đã chọn một quy luật khác về tương quan của các lực thì hẳn sẽ dẫn đến một quảng tính và một không gian “với các thuộc tính và kích thước khác” với các thuộc tính và kích thước quen thuộc với ta, và dẫn đến một sự tuân thủ quy luật làm nảy sinh khả năng có “một khoa học về các loại không gian khả hữu này mà không nghi ngờ gì nữa, đó sẽ là công trình khó khăn nhất mà nhận thức hữu hạn có thể đảm nhận trong lĩnh vực hình học” (sđd). Với quan niệm này Kant định vị chính xác tính giá trị hiệu lực của hình học Euclid trong phạm vi những giới hạn của không gian khả hữu, chứ không phải trong không gian khả hữu duy nhất.
Mặc dù trong quyển LS, Kant vẫn tiếp tục phân tích các phương diện chủ quan của không gian, nhưng ở trong quyển này và trong các đoạn văn của quyển ĐTLVL, ông tập trung chính yếu vào luận điểm cho rằng không gian là hiện tượng của các quan hệ giữa các lực bản thể. Trong LS, ông gán “sự bất khả, mà chúng ta nhận thấy nơi bản thân chúng ta, của việc hình dung một không gian có hơn ba chiều” cho việc linh hồn được cấu tạo theo cách bị “kích động” hay “thụ nhận các ấn tượng từ bên ngoài theo bình phương nghịch đảo của các khoảng cách”. Trong ĐTLVL, Kant lại tập trung vào các quan hệ khách quan của lực bản thể vốn tạo ra không gian, và một lần nữa ông lại hướng sự tập trung một cách tự giác hơn vào việc biện hộ cho siêu hình học về lực của Leibniz chống lại hình học về quảng tính của Descartes. Hai lực chính yếu được xem xét lúc này là lực hút và lực đẩy, nhưng không gian vẫn còn được định nghĩa theo Leibniz “không phải là một bản thể mà như một hiện tượng nào đó của quan hệ bên ngoài của các bản thể” (ĐTLVL, tr. 481, tr. 57). Không gian, do đó, là sự xuất hiện của các bản thể liên quan đến lực đẩy và lực hút; nó vẫn còn được định nghĩa một cách khách quan, và ít nhất là trong văn bản này, không quy chiếu đến chủ thể.
Từ giữa thập niên 1760, nhận thức của Kant về không gian dường như đã thay đổi đáng kể; ông từ bỏ định nghĩa của Leibniz về không gian như quan hệ khách quan của các bản thể để đi tới một quan niệm có tính chủ quan hon. Sự phát triển này nảy sinh khi Kant dường như ngày càng nghi ngờ triết học Leibniz/Wolff. Quan điểm siêu hình học theo Leibniz sơ kỳ của Kant mang lại những thức nhận về quan hệ của các lực không áp dụng cho hình học Descartes, vốn vẫn còn hiển nhiên trong quyển ĐTLVL, được kế tục trong quyển GM bằng quan điểm siêu hình học với tư cách là “khoa học về các ranh giới của lý tính con người” (tr. 368, tr. 354). Bằng cách nghiên cứu các ảo giác của các nhà huyền học và các triết gia trong quyển GM, Kant đánh giá cao hơn vai trò của tri giác chủ quan trong việc cấu tạo không gian. Sự thức nhận này được thấy rất rõ trong quyển DB, ở đó Kant đi từ lập trường của Leibniz đến lập trường của Newton. Có lẽ khảo luận này là sự biện hộ cho không gian tuyệt đối của Newton qua việc khai triển luận điểm analysis situs của Leibniz (ông dự đoán sự ra đời của hình học tôpô), chống lại siêu hình học Leibniz. Bằng cách nghiên cứu các hiện tượng về phương hướng và định hướng trong không gian, Kant hy vọng cho thấy rằng không gian với tư cách một “sự sắp đặt” chỉ có thể được biện hộ khi quyi chiếu đến không gian tuyệt đối. Ông đi từ phát biểu cho rằng “phương hướng... trong đó trình tự của các bộ phận này được định hướng, quy chiếu đến không gian bên ngoài sự vật” đến phát biểu rằng trình tự các sự vật trong vũ trụ phải được định hướng theo “không gian phổ quát như là một sự thống nhất, mà mọi quảng tính của nó phải được xem như một bộ phận” (DB, tr. 378, tr. 365-66).
Kant gắn bó với học thuyết của Newton về không gian tuyệt đối chỉ một thời gian ngắn, nhưng các phương tiện mà ông tìm kiếm để xác định tính giá trị hiệu lực của nó về “các phán đoán trực quan về quảng tính” lại có một tương lai trong sự phát triển tư tưởng của ông. Ba chiều của
không gian, nói đến trong quyển LS và quyển DB, vốn được rút ra từ quy luật quan hệ giữa các lực bản thể giờ đây được gán cho kinh nghiệm của hữu thể có thân xác. Xuất phát từ ba mặt phẳng giao nhau tạo nên không gian ba chiều, Kant cho rằng “cơ sở tối hậu, trên đó ta hình thành các khái niệm của ta về phương hướng trong không gian, được rút ra từ mối quan hệ giữa các mặt phẳng giao nhau này với thân thể của chúng ta” (DB, tr. 379, tr. 366). Tất cả các định hướng trên và dưới, trước và sau, trái và phải đều rút ra từ kinh nghiệm không gian về một vật thể đứng và được mô tả là “các cảm thức rõ ràng”. Những khác biệt này trong phạm vi kinh nghiệm không gian làm nảy sinh sự xuất hiện của các đối ứng không đồng dạng (incongruent counterparts), một hiện tượng mà theo Kant đã dứt khoát bác bỏ quan niệm của Leibniz về không gian như một trật tự thuần lý, lẫn hệ luận của nó về sự đồng nhất của những cái không thể nhận thức được. Hiện tượng các đối ứng không đồng dạng, dựa trên những dị biệt không gian nền tảng, gợi cho thấy rằng các vật thể đồng nhất về mặt khái niệm lại khác nhau về mặt định hướng không gian.
Trong suốt quyển DB, Kant nhất quán quy những sự dị biệt hóa trong không gian về lại cho “không gian tuyệt đối và nguyên thủy” và, mặc dù không phải là đối tượng của cảm giác bên ngoài, nhưng “khônggian tuyệt đối và nguyên thủy” là một “khái niệm nền tảng mà trên hết nó làm cho mọi cảm giác bên ngoài đó có thể có được” (tr. 383, tr. 371). Kant thừa nhận rằng sự phân biệt của Newton giữa không gian tương đối và không gian tuyệt đối “không phải không có khó khăn của nó” và rằng những khó khăn này nảy sinh “khi ta tìm cách triết lý về dữ kiện tối hậu của nhận thức của ta” (tr. 383, tr. 372). Tuy nhiên, nếu xem không gian tuyệt đối là một định đề thì đi ngược lại với định nghĩa mới của ông về siêu hình học như là khoa học về những ranh giới của lý tính con người. Do đó, hai năm sau trong quyển LA, lập trường của Kant về không gian lại thay đổi một cách triệt để, nhưng có thể nói nó xây dựng trên các lập trường ông đã xác lập cho đến lúc đó. Lập trường mới của ông phản bác sự đồng nhất vật chất với không gian của Descartes, lẫn quan điểm của Leibniz về không gian như một trật tự giống như-lý tính (quasi-rational) của các bản thể; giai đoạn [quan niệm không gian] đi theo Newton được nói tới trong quyển ĐTLVL cũng bị gạt bỏ, và quan niệm của Locke về không gian như sự trừu tượng hóa khỏi những cái khả giác bị bác bỏ một cách kiên quyết. Cái còn lại là một nhận thức về không gian như: (a) một trật tự các quan hệ giữa các đối tượng của giác quan, nhưng không có sự sắp đặt khách quan các lực bản thể làm cơ sở cho chúng; (b) sự phối kết các đối tượng của giác quan dựa vào những khác biệt phi-khái niệm; (c) tạo ra các đối tượng khả hữu của giác quan mà không rút ra từ chúng; và (d) một hiện tượng không thể tách rời với kinh nghiệm của con người về việc có một cơ thể.
Sự chuyển sang một nhận thức chủ quan hơn về không gian trùng hợp với một định nghĩa mới về siêu hình học. Siêu hình học không còn được đánh đồng với khoa học về các lực bản thể, giờ đây nó được coi là khoa học về những ranh giới của nhận thức con người. Theo định nghĩa mới này, hình học không còn đối lập với siêu hình học, nhưng được thừa nhận là khoa học về các quan hệ không gian. Nhưng các quan hệ không gian này cũng không còn được coi là chỉ gồm có các hình thù và các số lượng do quảng tính thể hiện, nhưng giờ đây được quy chiếu đến các thuộc tính của trực quan của con người về không gian. Trong LA, không gian không còn là “một liên kết tất yếu thực tồn và tuyệt đối, có thể nói là để nối tất cả bản thể và trạng thái khả hữu” (LA §16) nhưng đã trở thành một trong những nguyên tắc của mô thức về thế giới khả giác. Hiểu theo cách ấy, không gian là một trực quan, nghĩa là, cùng với thời gian, nó là một bộ phận của sự phối kết thụ động của tâm trí về các đối tượng của giác quan (LA §10) và vì thế không thể tách rời với cảm năng thụ nhận của một chủ thể. Với tư cách một trực quan, không gian không tự khởi và suy lý theo cách của khái niệm, nhưng mặc dù vậy, nó phối kết các đối tượng của giác quan; nó không thâu gồm chúng vào dưới các khái niệm phổ biến, nhưng lĩnh hội chúng “một cách trực tiếp hay như cái cá biệt” và trong khi làm vậy nó “khoác cho chúng một phương diện nào đó” (LA §4). Hơn nữa, không gian không rút ra từ sự trừu tượng hóa khỏi các đối tượng của giác quan, nhưng là “điều kiện để một cái gì đó có thể là đối tượng của các giác quan của ta” (LA §10).
Kant nêu rõ những đặc tính này trong LA §15, nơi ông vạch ra năm đặc tính quan trọng của định nghĩa về không gian. Thứ nhất, khả thể của “các tri giác bên ngoài lấy khái niệm về không gian làm điều kiện tiên quyết; nó không sáng tạo ra không gian”, từ đó suy ra “các sự vật ở trong không gian kích động các giác quan, nhưng bản thân không gian không thể được rút ra từ các giác quan” (§15). Thứ hai, không gian “là một biểu tượng cá biệt bao gồm hết mọi sự vật bên trong chính nó; nhưng nó không phải là một khái niệm trừu tượng chứa đựng các sự vật bên dưới nó” (sđd). Thứ ba, hệ quả của đặc tính thứ hai, không gian là “một trực quan thuần túy” hay khái niệm cá biệt vốn là “mô thức nền tảng của tất cả cảm giác bên ngoài”. Nó không thể được rút ra, hoặc từ các cảm giác hoặc từ các khái niệm; liên quan đến các khái niệm, Kant nhắc lại chứng minh của ông về tính phương hướng nội tại của không gian và các đối ứng không đồng dạng để cho thấy có những thuộc tính của các vật thể trong không gian “không thể được mô tả một cách suy lý” (sđd). Thứ tư, giờ đây Kant không dùng những luận cứ này để biện hộ cho sự tồn tại của không gian tuyệt đối, mà để biện luận rằng “không gian không phải là một cái gì khách quan và thực tồn”. Khi công khai phủ nhận các học thuyết của Newton và Teibniz về không gian, Kant cho rằng nó không phải là bản thể, tùy thể hoặc tương quan mà “có tính chủ quan và ý thể”, xuất phát từ “bản tính của tâm thức phù hợp với một quy luật ổn định với tư cách một lược đồ, có thể nói như vậy, để phối kết mọi thứ được cảm nhận từ bên ngoài” (sđd). Thứ năm và cuối cùng, mặc dù không gian có tính chủ quan và ý thể, nhưng nó là “cơ sở của mọi chân lý trong cảm năng bên ngoài”. Sở dĩ như vậy là vì “mọi vật không thể xuất hiện cho các giác quan dưới bất kỳ phương diện nào hết trừ phi qua trung gian của năng lực tâm thức phối kết mọi cảm giác theo một quy luật vốn ổn định và có sẵn trong bản tính của tâm thức” (sđd). Chỉ nhờ vào không gian mà các sự vật mới có thể trở thành những hiện tượng, và chỉ trong sự phù hợp với chúng thì giới tự nhiên mới có thể xuất hiện trước các giác quan.
Với các luận điểm này, Kant sử dụng trước nhiều luận cứ liên quan đến không gian sẽ được trình bày trong PPTTTT, trong đó không gian được bàn luận cùng với thời gian trong phần “Cảm năng học Siêu nghiệm”. Bây giờ cả không gian và thời gian được mô tả như các trực quan thuần túy tiên nghiệm: chúng là thuẫn túy trong chừng mực chúng không thể được rút ra từ cảm năng hoặc giác tính; là tiên nghiệm ở chỗ chúng có trước, hoặc được tiền giả định bởi tri giác cảm tính; và là trực quan vì rằng chúng phối kết cái đa tạp mà không thâu gồm nó theo cách của khái niệm. Kant biện minh tính chất thuần túy, tiên nghiệm và tổng hợp của không gian bằng một khảo sát siêu hình học và siêu nghiệm. Khảo sát siêu hình học đó hệ tại ở “một biểu tượng rõ ràng, dù không nhất thiết thấu đáo, về cái gì thuộc về một khái niệm” (PPLTTT A 23/ B38). Trong trường hợp này, Kant cho thấy rằng không gian không thể được rút ra từ “kinh nghiệm bên ngoài” mà là “một biểu tượng tiên nghiệm, nó nhất thiết làm cơ sở cho các hiện tượng bên ngoài” (A 24/B 39); ông còn nói thêm rằng không gian là một trực quan thuần túy và do đó khác với một khái niệm, và rằng nó là một “đại lượng vô hạn được mang lại” mà, khác với một khái niệm, nó chứa đựng “số lượng vô tận các biểu tượng bên trong chính nó” (PPLTTT B 40). Sau đó, trong khảo sát siêu nghiệm, Kant sử dụng hình học như môn học về “nhận thức tổng hợp tiên nghiệm” vốn sinh ra từ nguyên tắc không gian.
Trên cơ sở hai khảo sát này Kant kết luận rằng không gian không phải là thuộc tính của bản thân những sự vật hay quan hệ giữa chúng với nhau. Nó là “điều kiện chủ quan của cảm năng, chỉ nhờ đó trực quan bên ngoài mới có thể có được cho ta” (PPLTTT A 26/ B 42). Điều kiện này hệ tại ở “tính thụ nhận của chủ thể, khả năng của nó được kích động bởi các đối tượng” và với tư cách đó nó đi trước mọi tri giác có thực. Nó là điều kiện để các sự vật trở thành hiện tượng cho ta, và bởi không có một phương tiện nào khác để tiếp cận chúng ngoài thông qua không gian, cho nên có thể nói rằng không gian có tính hiệu lực giá trị khách quan đối với “tất cả những gì có thể xuất hiện ra cho ra ở bên ngoài như là đối tượng [hiện tượng]” (PPLTTT A 28/B 44). Các trực quan về đối tượng dưới phương diện không gian do đó được thích ứng với, và bởi, các khái niệm của giác tính nhằm tạo ra kinh nghiệm và nhận thức. Các yêu sách về nhận thức các đối tượng mà không tôn trọng những ranh giới không gian (dĩ nhiên là cả thời gian) của trực quan con người đều bị xem là không có giá trị hiệu lực.
Mặc dù lập trường phê phán của Kant về không gian thể hiện một tổng hợp phê phán tinh vi một số lập trường triết học về vấn đề này, nhưng về nhiều phương diện nó vẫn chưa giải quyết được những khó khăn của Aristoteles liên quan đến bản tính của không gian. Sự đánh đồng không gian như một mô thức của trực quan với tính thụ nhận thụ động dẫn đến những khó khăn trong việc nhận thức bằng cách nào không gian có thể phối kết một cách thụ động các đối tượng của cảm giác. Kant không đi theo gợi ý của Aristoteles tập trung vào không gian như ranh giới, ông thích nhấn mạnh tính chất phối kết của nó, nhưng rõ ràng Kant chia sẻ khó khăn với Aristoteles trong việc không thể phân biệt một cách thuyết phục không gian với chất thể và mô thức. Bằng cách xem không gian như trực quan chứa đựng bên trong nó “số lượng vô tận các biểu tượng” mà nó “khoác” cho một phưong diện nào đó, có thể thấy Kant đã thuật lại những khó khăn thay vì đề xuất một giải pháp thuyết phục cho nó.
Mai Sơn dịch