TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

grund

đất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cơ sở

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

chân ren

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

chân răng

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

de

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đay

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nền

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tầng đất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đắt cái

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thung lũng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

triền

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lũng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

chỗ trũng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nền móng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cơ s<3

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lí do

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

lí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cơ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hoàn toàn

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tận gốc

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tận rễ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đất trồng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

đất đai

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

mảnh đất

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

miếng đất

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nông trại

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý nghĩa cơ bản

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý nghĩa chính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý nghĩa gốc

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ý nghĩa ban đầu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều kiện cơ bản

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều kiện không thể thiếu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tư thế ban đầu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quan điểm cơ bản

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quan điểm chính

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự không cơ sở

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự vô căn cứ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

khái niệm cơ bản

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cơ sở/căn cứ/nguyên nhân

 
Từ điển triết học Kant

căn cứ

 
Từ điển triết học Kant

nguyên nhân

 
Từ điển triết học Kant

điều kiện và giải thích

 
Từ điển triết học HEGEL
gründ

chứng cứ bác lại

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lý lẽ phản bác

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Anh

grund

root

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ground

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

reason

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

bottom

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

sea bed

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

first coat

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

priming

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

sand bank

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

sandbar

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

shallow place

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

natural ground

 
Lexikon xây dựng Anh-Đức

condition and explanation

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

grund

Grund

 
Metzler Lexikon Philosophie
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Lexikon xây dựng Anh-Đức
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển triết học HEGEL

Meeresgrund

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Grundierung

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Sandbänke

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Sandgrund

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

seichte Stelle

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

trockene Stelle

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

begriff

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

gewachsener

 
Lexikon xây dựng Anh-Đức

Boden

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Hauptsache

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Untergrund

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

bedingung und erklärung

 
Từ điển triết học HEGEL
gründ

gründ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Pháp

grund

base d'une soudure

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

fond de la mer

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

fond marin

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

couche de fond

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

impression

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

banc

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

banc de sable

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

fond

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

♦ im Grund e (genommen)

thật ra, thực chất, là thực;

welchem Grund e?

vì lí do gì; aus

dem (einfachen) Grund e daß...

chỉ vì..., chỉ do..., chỉ tại..., chỉ vì

(nicht) ohne Grund

(không) vô ích (uổng công, hoài công);

allen [guten] Grund haben, Grund genug haben

có đầyđủcơsỏ;

in Grund und Bóden

đến cùng, dứt khoát, triệt đề, hẳn, hoàn toàn, tuyệt đối; in

sich in Grund und Bóden schämen

xấu hổ quá, ngượng chín người.

Từ điển triết học HEGEL

Cơ sở, Điều kiện và Giải thích (sự) [Đức: Grund, Bedingung und Erklärung; Anh: ground, condition and explanation]

Nghĩa gốc của Grund là “cơ sở, đáy, nền”, với ngụ ý rằng nó nâng đỡ những gì dựa vào nó. Hegel khai thác sự xuất hiện của nó trong những cụm từ thông thường như: zu Grunde gehen (nghĩa đen là “đi đến đáy” vì thế nói về một con tàu là “chìm”, và nói về người, v.v. là “bị phá sản, mục rữa”); zu Grunde richten (“đưa hay hướng đến đáy”, vì thế nghĩa là “làm chìm, hủy hoại, hủy diệt” một vật hay người); auf den Grund gehen (“đi đến đáy” của cái gì đó); im Grunde (“kỳ cùng, về nền tảng, nói nghiêm ngặt”); và von Grund aus (“từ dưới lên, xuyên suốt, triệt đê”). Grund cũng có nghĩa là (một) lý do (cho một hành động, niềm tin hay xúc cảm) và lý do nói chung (cho việc xuất hiện cái gì đó). Nó thường nằm trong một số từ ghép (chẳng hạn Grundsatz (nguyên tắc, tiên đề)) và mang lại hai động từ, gründen (auf) (đặt nền tảng (trên), xác lập, đặt cơ sở cho (cho những ý niệm)) và begründen (đặt nền tảng, xác lập, củng cố, bản thể hóa, mang lại lý do). Từ đối ứng với Grund là Folge (hệ luận, kết quả, từ động từ folgen (dẫn đến, đi theo)) hay das Begründete (“cái có cơ sở”, “cái được đặt cơ sở”).

Cơ sở (Grund) được các nhà huyền học, chẳng hạn Eckhart, sử dụng để chỉ BẢN CHẤT thâm sâu nhất của LINH HỒN, ở đó nó tiếp xúc với Thượng Đế. Eckhart cũng nói về Abgrund (“vực thẳm”) của Thượng Đế và linh hồn, và các nhà huyền học thời sau du nhập Ungrund (vô-cơ sở) và Urgrund (cơ sở nguyên thủy). Với Böhme, cái vô-cơ sở (Ungrund) là giai đoạn đầu tiên của tiến trình thần thánh, tức nhất thể vô-cơ sở, tự khép kín, cái này sau đó phát sinh ra cơ sở (Grund), tức giai đoạn hai. Schelling cũng quy đến “Sự ĐỒNG NHẤT tuyệt đối”, đi trước mọi cơ sở và sự hiện hữu, như Urgrund hay Ungrund.

Cách dùng triết học chuẩn về Grund (Cơ sở) là như sau: Grund là (1) một mệnh đề hàm chứa một mệnh đề thứ hai; (2) một lý do để tin cái gì đó; (3) lý do của một ai đó để tin cái gì đó; (4) sự kiện hay sự việc chịu trách nhiệm cho sự kiện hay sự việc khác; (5) một lý do để làm (hoặc không làm) cái gì đó; (6) lý do của một người để làm (hoặc không làm) cái gì đó (Beweggrund có nghĩa là “động cơ”). Trong mỗi trường hợp này, cơ sở có thể (hoặc không thể) là (lý do) đầy đủ (zureichend) để giải thích, mang lại lý do hay đặt cơ sở đầy đủ cho sự xuất hiện, mệnh đề, v.v. Vì vậy, Leibniz đưa ra “nguyên tắc lý do đầy đủ”: “không có gì xuất hiện mà không có một nguyên nhân hay ít nhất một lý do quy định nó”. Điều này được Leibniz, và những người theo ông như Wolff, áp dụng cho các mệnh đề, cũng như cho các sự kiện và sự việc: không mệnh đề nào là đúng trừ phi nó có một lý do đầy đủ, cho dù ta không nhận thức được lý do ấy Hegel mang lại cho nguyên tắc này một lý giải mới mẻ; đó là, tất cả mọi thứ không chỉ được xem xét đơn giản trong TÍNH TRựC TIẾP bề mặt của nó, mà còn được xem như được thiết định bởi cái gì đó khác, tức bởi cơ sở của nó. Dù vậy, việc xem sự vật đơn giản như có cơ sở, đối với Hegel, không hoàn toàn thỏa mãn. Ông phản bác nguyên tắc này vừa như một nguyên tắc giải thích vừa như một nguyên tắc nhận thức luận; ông tán thành cách dùng của Leibniz cho những giải thích MỤC ĐÍCH LUẬN, nhưng tin rằng điều này đã vượt khỏi quan niệm về một cơ sở để vươn đến những quan niệm về KHÁI NIỆM và về MỤC ĐÍCH.

Trong nghiên cứu chính của mình, trong KHLG, Hegel dùng chữ này với một dãy nghĩa rộng. Trước hết ông liên hệ những gì được đặt cơ sở với HÌNH THỨC và cơ sở với bản chất, chất liệu và nội dung. Đây là cơ sở TUYỆT ĐỐI: nó bắt đầu bằng việc là một Grundlage đơn thuần, tức một “lớp đáy hay thể nền, một cơ sở, một nền tảng”, vốn không đòi hỏi hay quy định bất kỳ loại hình thức hay siêu-cấu trúc đặc thù nào; nhưng nó kết thúc bằng cách sở đắc nội dung của chính mình, sao cho nó là cơ sở được quy định hay cơ sở nhất định, tức cơ sở của một (loại) hiện tượng đặc thù.

Nếu cơ sở chiếm được nội dung vốn phản ánh đầy đủ nội dung của hiện tượng mà nó đặt cơ sở, nó là một cơ sở “hình thức” và nó giải thích đầy đủ cho hiện tượng ấy. Nhưng một sự giải thích như thế (Erklärung - cũng là “ĐỊNH NGHĨA”), theo Hegel, là trùng phức hay lặp thừa (tautologisch/ Anh: tautologous): nó giải thích lý do thuốc phiện làm cho người ta ngủ mê là do khả năng gây mê của nó, nghĩa là, nó chỉ đơn giản mô tả lại hiện tượng mà nó cần giải thích. Trong HTHTT, cũng như trong KHLG, Hegel đã lập luận rằng những giải thích về các hiện tượng dựa vào một lực hút chẳng hạn là trùng phức và cho thấy việc Ý THỨC “tự độc thoại với chính mình”. Một cơ sở như thế không những đặt cơ sở cho hiện tượng, mà còn tự đặt cơ sở cho chính mình: nội dung của cơ sở hoàn toàn được rút ra từ nội dung của hiện tượng, và được đặt cơ sở nhận thức luận trong nội dung của hiện tượng.

Ở giai đoạn kế tiếp, tức giai đoạn của “cơ sở hiện thực”, thì cơ sở khác về nội dung với hiện tượng. Ở đây Hegel xem xét hai loại trường hợp. Thứ nhất, có các cơ sở khoa học, chẳng hạn lực hấp dẫn (và các cơ sở thần học, chẳng hạn, Thượng Đế), khác về nội dung với mọi hiện tượng đặc thù nhờ vào tính vô cùng đa dạng của các hiện tượng mà nó được cho là đã đặt cơ sở. Nhưng một cơ sở như thế, dù không trùng phức, cũng không giải thích được bất kỳ hiện tượng đặc thù nào, chính vì nó được mang ra để giải thích quá nhiều thứ: nó không thể giải thích tại sao hiện tượng xét như một toàn bộ là thuộc về loại này (chẳng hạn vận động của các hành tinh) chứ không phải thuộc loại khác (chẳng hạn thủy triều). Thứ hai, một phương diện của một hiện tượng thường được chọn ra như phương diện bản chất của nó, được cho là đặt cơ sở cho hiện tượng ấy xét như một toàn bộ, so với mọi phương diện khác của nó. Chẳng hạn, phương diện trì hoãn của sự TRỪNG PHẠT được xem như cơ sở, hay lý do, cho sự trừng phạt. Nhưng sự lựa chọn một phương diện như thế là tùy tiện, và mối quan hệ của phương diện ấy với các phương diện khác vẫn là BÂT TÂT và bên ngoài, trừ phi ta vượt khỏi phạm trù “cơ sở” và xem xét “khái niệm” về toàn bộ hiện tượng. Dưới đề mục này, Hegel cũng xem xét “Räsonnement [một từ có nghĩa xấu để chỉ sự “lý sự”] từ các cơ sở”, nghĩa là tìm kiếm các lý do để ủng hộ hoặc chống lại những hành động hay niềm tin. Những lý do như thế không bao giờ có tính kết luận: chẳng hạn sự bảo tồn mạng sống của một người là một lý do để trộm cắp hay trốn quân dịch, nhưng một lý do thuộc loại này chỉ là một trong nhiều lý lẽ theo hoặc chống, và nó không thể biện minh cho hành động nói trên được.

Lúc này một lỗ hổng đã xuất hiện giữa cơ sở và kết quả của nó, tức cơ sở đòi hỏi những điểu kiện nhất định nếu nó muốn có tác động. Một Bedingung (“điều kiện”) nguyên nghĩa là một thỏa thuận hay một điều khoản pháp lý, và vì thế nó là một điều kiện tất yếu lô-gíc, một mệnh đề nhất thiết phải đúng nếu mệnh đề khác là đúng, và cũng là một điều kiện

cần về mặt nhân quả. Động từ bedingen có nghĩa “đặt điều kiện, ước định, đòi hỏi (như một điều kiện để thành công) và cũng có nghĩa “gây ra, tạo ra (như một kết quả của những điều kiện nhất định)”.

Điều kiện thì khác với cơ sở. Chẳng hạn, đói là cơ sở hay lý do cho việc tôi ăn. Nó vừa mang lại một lý do cho việc ăn, vừa có xu hướng dẫn đến việc ăn nếu không có gì cản trở. Nhưng đói đơn thuần sẽ không làm tôi ăn trừ phi có những điều kiện được thỏa ứng, chẳng hạn có sẵn trái cây. Không như cơn đói của tôi, trái cây là một thực thể độc lập, có đó, và về thực chất là không quan hệ gì với việc tôi ăn: tự bản thân nó, trái cây không mang lại lý do gì để ăn và không có xu hướng dẫn đến việc ăn. Trái cây về thực chất không phải là một điều kiện cho việc ăn (của tôi), nhưng được biến thành một điều kiện cho việc ăn bởi tôi đang đói: trái cây bị cơn đói của tôi quy định hay “điều kiện hóa” (“bedingt”; Anh: conditioned) để trở thành một điều kiện cho việc tôi ăn. Nhưng một khi trái cây đã được điều kiện hóa như vậy và được tích hợp vào trong lĩnh vực của cơn đói của tôi, nó song hành với cơn đói của tôi: trái cây như được ham muốn mang lại một lý do cho việc ăn, và có xu hướng làm nảy sinh việc ăn. Cơn đói của tôi và trái cây được ham muốn là hai điều kiện cho việc tôi ăn, mỗi cái đơn thuần chỉ là một điều kiện cần, nhưng hợp lại thành cái TOÀN THỂ (Totalität) những điều kiện và vì thế đủ để tạo ra sự kiện hay sự VIỆC (Sache), tức ăn. Khi tôi ăn, những điều kiện của việc tôi ăn, tức trái cây và cơn đói, biến mất: chúng được hấp thụ hay bị VƯỢT BỎ thành việc ăn mà chúng đặt cơ sở hay TRUNG GIỚI, và vì thế, theo một nghĩa nào đó, là vô-điều kiện. Vì những điều kiện [có thể] được vượt bỏ, nên Hegel không đồng ý với quan niệm (thời đầu) của Schelling rằng cái gì đó có điều kiện hay bị đặt điều kiện (bedingt) chỉ khi nó là một VẬT (Ding).

Trong NHẬN THỨC, cũng như trong thế giới, Hegel tin rằng, cơ sở và các điều kiện bị vượt bỏ thành những gì chúng đặt cơ sở và đặt điều kiện: chẳng hạn một hệ thống triết học và một nhà nước chính trị đã phát triển hấp thu những điều kiện vật chất bên ngoài chúng, và cơ sở của chúng là cấu trúc lô-gíc công khai của chúng, chứ không phải là một nguyên tắc mà từ đó chúng bắt đầu hay là một bản chất nằm bên dưới.

Hoàng Phú Phương dịch

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Boden,Grund,Hauptsache,Untergrund

fond

Boden, Grund, Hauptsache, Untergrund

Lexikon xây dựng Anh-Đức

Grund,gewachsener

natural ground

Grund, gewachsener

Từ điển triết học Kant

Cơ sở/Căn cứ/Nguyên nhân [Hy Lạp: arche, aiton; Latinh: ratio; Đức: Grund; Anh: ground]

Xem thêm: Nhân quả, Mâu thuẫn, Logic học, Bản thể học, Nguyên tắc, Lý tính, Siêu nghiệm,

Grund là một khái niệm cực kỳ phong phú và hàm hồ vì Kant sử dụng theo nhiều nghĩa, gồm “cơ sở hình thức”, “cơ sở tự nhiên”, “cơ sở luân lý”, “cơ sở siêu hình học” và “cơ sở mục đích luận”, ở đây mới chỉ là một vài sự sử dụng thôi. Nó thường đồng nghĩa với ratio hay lý do cũng như với nguyên nhân và, thỉnh thoảng, với nguyên tắc. Tính đa nghĩa này đã làm phát sinh nhiều khó khăn nghiêm trọng trong việc dịch thuật ngữ này, kết quả là làm cho sự sử dụng của Kant thậm chí còn tối tăm hơn. Tuy nhiên, ta có thể nhận ra ba nghĩa rộng mà thuật ngữ này được sử dụng: a) như một tiên đề trong một lập luận hay cơ sở khởi động cho một phán đoán; b) nguyên nhân của một kết quả; c) lý do hay ý đồ cho một hành động. Mặc dù mỗi nghĩa này đều chia sẻ một khuôn mẫu nằm bên dưới của tư tưởng có chung với những tư tưởng khác, một sự mơ hồ nước đôi mà Kant thường khai thác, ông cũng quan tâm đến việc phân biệt và xác lập các ranh giới giữa chúng.

Động cơ của Kant cho cả việc khai thác lẫn xác định rõ tính mơ hồ nước đôi quanh [khái niệm] cơ sở có thể được lần đến sự đối lập có tính phê phán của ông với cái đã nổi tiếng như “triết học Leibniz-Wolff ”. Đặc biệt, Wolff đã đặt nền tảng cho toàn bộ hệ thống của ông trên những sự mơ hồ nước đôi của thuật ngữ “cơ sở”, sử dụng nó để thống nhất các lĩnh vực logic học, siêu hình học, đạo đức học và chính trị học thành một hệ thống duy lý. Kant nhất mực chống đối dự án này xuyên suốt sự nghiệp của ông, từ cuốn NTĐT (1755) đến cuốn PH (1790) và tiêu điểm của phê phán của ông chính là khái niệm mơ hồ nước đôi về cơ sở.

Trong NTĐT, Kant định nghĩa cơ sở như “cái xác định một chủ từ đối với bất kỳ thuộc từ nào của nó” hoặc cái “xác lập một sự nối kết và một sự kết hợp giữa chủ từ và thuộc từ này hoặc thuộc từ khác” (NTĐT, tr. 392, tr. 11). Ông nhấn mạnh rằng cơ sở “luôn đòi hỏi” một chủ từ và một thuộc từ có thể được nối kết với chủ từ. Mối quan hệ giữa chủ từ và thuộc từ là khuôn mẫu của tư tưởng làm cơ sở cho các nghĩa logic, bản thể học và thực hành của cơ sở. Sau đó, Kant tiến hành phân biệt giữa cơ sở quy định “trước” và “sau”; cái đầu là cơ sở bản thể học “đặt cơ sở cho cái tại sao (why) hay cơ sở của tồn tại hay sự trở thành”, trong khi cái sau là cơ sở logic và nhận thức luận “đặt cơ sở cho cái thế này (that), hay cơ sở nhận thức” (sđd). Sự phân biệt này được Kant sử dụng minh nhiên để phê phán “ngài Wolff trứ danh” vì đã nhập nhằng cơ sở bản thể học và logic, với hàm ý rằng sự nhập nhằng này làm hại toàn bộ hệ thống duy lý của Wolff.

Hẳn không phải quá thổi phồng khi xem công trình triết học về sau của Kant như nỗ lực có hệ thống nhằm suy tưởng thông qua những hàm ý của việc phản bác sự thống nhất cơ sở logic và cơ sở bản thể luận (nói nôm na là, giữa nhận thức và tồn tại) trong khi không từ bỏ khoa học để đi theo huyền học theo cách của Crusius (xem Caygill, 1989, tr. 207-211). Trong PPLTTT, Kant chấp thuận phương pháp của Wolff trong khi vẫn phê phán yêu sách giáo điều của ông rằng sự phân biệt giữa cái khả giác và cái khả niệm chỉ đon thuần có tính logic chứ không có tính siêu nghiệm (xem PPLTTT B 37 và A 44/ B 61). Thay cho sự nhập nhằng của các Cổ sở của nhận thức và tồn tại, Kant tách rời chúng để khảo sát những thông số của mối quan hệ thực sự của chúng. Một kết quả của nghiên cứu này là sự phân biệt giữa Cổ sở hiện thực và Cổ sở logic (vang vọng sự phân biệt giữa Cổ sở quy định trước và sau), với cái trước tiếp tục phân chia dựa theo “cổ sở hình thức-hiện thực” hay trực quan về một đối tượng, và “cổ sở chất thể-hiện thực” hay sự hiện hữu của một đối tượng (xem thư gửi Reinhold ngày 12 tháng 5 năm 1789, phác họa bản tính của sự hiểu sai của Eberhard về triết học phê phán, TT, tr. 139). Một kết quả tiếp theo là sự phân biệt giữa cả Cổ sở hiện thực lẫn Cổ sở logic với Cổ sở thực hành. Các Cổ sở của hành động không thể bị phụ thuộc vào bất kỳ Cổ sở nào của loại trước (cổ sở hiện thực và Cổ sở logic), vì nếu thế, chúng hóa ra sẽ định tính chất cho sự tự do của hành động (một phê phán liên tục được viện ra để chống lại Wolff trong thế kỷ XVIII). Do đó, các Cổ sở thực hành phải là “các Cổ sở của lý tính [vốn] mang lại quy tắc một cách phổ quát cho các hành động, dựa vào các nguyên tắc, không chịu ảnh hưởng của các hoàn cảnh thời gian hay nổi chốn” (SL, § 53).

Các phưong diện lý thuyết của nghiên cứu phê phán về Cổ sở được Kant giải thích rõ trong sự đối đáp với những phản bác kiểu Leibniz của Eberhard đối với cưong lĩnh của PPLTTT. Kant nhận thấy nổi Eberhard một sự nhập nhằng giữa “nguyên tắc logic (mô thức) của nhận thức” rằng “mọi mệnh đề phải có một cơ sở” phục tùng “nguyên tắc mâu thuẫn” với “nguyên tắc siêu nghiệm (chất liệu)” rằng “mọi thứ phải có cơ sở [nguyên nhân] của nó” phục tùng nguyên tắc lý do đầy đủ (PH, tr. 193-194, tr. 113-114). Sau đó, Kant liên tục nhấn mạnh vào sự tách rời hai nghĩa của Cổ sở, giới hạn nghĩa “nguyên nhân” vào cho “các đối tượng của trực quan cảm tính” (PH, tr. 194, tr. 113). Cấp độ của nhận thức và cấp độ của tồn tại được liên kết lại, nhưng theo những cách thức phức hợp hon nhiều so với việc thừa nhận chúng bởi sự nhập nhằng một cách đon giản. PPLTTT đã cho thấy kinh nghiệm là không thể có được mà không có “sự hài hòa giữa giác tính và cảm năng trong chừng mực nó làm cho một nhận thức tiên nghiệm về các qui luật phổ quát có thể có được”, nhưng nó không mang lại lý do nào để giải thích tại sao “hai nguồn suối nhận thức hoàn toàn dị loại nhau lại luôn nhất trí đến như thế để làm cho nhận thức thường nghiệm có thể có được” (PH, tr. 250, tr. 159). Hai cách hiểu này về cơ sở tuy nhất trí với nhau, nhưng bản thân các cơ sở cho sự nhất trí ấy không thể được xác định một cách dễ dàng nên chỉ được giả định mà thôi.

Bàn luận về “cơ sở” vẫn tiếp tục sau Kant, và khơi ra một khảo luận rất hay và một sự xét lại có tính lịch sử từ Schopenhauer (1813) về chủ đề này. Trong đó, Schopenhauer chỉ ra rằng vấn đề về cơ sở là một sự khúc xạ của một vấn đề triết học nền tảng liên quan đến mối quan hệ giữa tồn tại và logos. Lập trường này cũng xuyên suốt trong các phản tư của Heidegger về vấn đề cơ sở trong Các Nên tảng Siêu hình học của Logic học (1928), cuốn này đề xuất một sự giải thích cho mối quan hệ giữa cơ sở logic, cơ sở hiện thực và cơ sở thực hành, hay theo cách nói của Heidegger, là lý do, nguyên nhân và ý đồ. Đối với Heidegger, điều này cốt yếu ở mối quan hệ giữa logos và techne, hay giữa “việc chúng ta tồn tại trong thế giới khi tạo ra một tồn tại này từ tồn tại khác” (techne) và việc chúng ta tồn tại trong lời nói với nhau (logos) (tr. 118).

Đinh Hồng Phúc dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Grund /auf/aus/

hoàn toàn; tận gốc; tận rễ;

Grund /auf/aus/

(o PL) (veraltend, noch lándsch ) đất; đất trồng; đất đai (Erdreich, [Acker]krume);

Grund /auf/aus/

(o PL) (bes ôsterr ) mảnh đất; miếng đất; nông trại (Grundbesitz; Grundstück);

Grund /be.deu.tung, die/

ý nghĩa cơ bản; ý nghĩa chính;

Grund /be.deu.tung, die/

(Sprachw ) ý nghĩa gốc; ý nghĩa ban đầu (của một từ);

Grund /be.din.gung, die/

điều kiện cơ bản; điều kiện không thể thiếu;

Grund /hal.tung, die/

tư thế ban đầu;

Grund /hal.tung, die/

quan điểm cơ bản; quan điểm chính;

Grund /lo.sig.keit, die/

sự không cơ sở; sự vô căn cứ (Unbegründetheit);

Grund,begriff /der/

khái niệm cơ bản;

Grund,begriff /der/

(meist Pl ) điều kiện cơ bản;

gründ /der/

chứng cứ bác lại; lý lẽ phản bác;

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Grund /m -(e)s, Grün/

m -(e)s, 1. đay; bis auf den Grund đến đáy; 2. đất, nền, tầng đất, đắt cái; chất đất; der - und Bóden đất, quyền sỏ hữu ruộng đất; 3. thung lũng, triền, lũng, chỗ trũng; 4. nền; 5. nền móng, cơ s< 3; ♦ im Grund e (genommen) thật ra, thực chất, là thực; von - aus hoàn toàn, tận góc rễ, căn bản; 6. lí do, lí, cơ; aus welchem Grund e? vì lí do gì; aus dem (einfachen) Grund e daß... chỉ vì..., chỉ do..., chỉ tại..., chỉ vì lí do [giản đơn] là...; (nicht) ohne Grund (không) vô ích (uổng công, hoài công); allen [guten] Grund haben, Grund genug haben có đầyđủcơsỏ; in Grund und Bóden đến cùng, dứt khoát, triệt đề, hẳn, hoàn toàn, tuyệt đối; in - und Bóden verdorben sein hỏng bét; sich in Grund und Bóden schämen xấu hổ quá, ngượng chín người.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Grund /m/CT_MÁY/

[EN] root

[VI] chân ren; chân răng

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Grund /INDUSTRY-METAL/

[DE] Grund

[EN] root(of a weld seam)

[FR] base d' une soudure

Grund,Meeresgrund /SCIENCE/

[DE] Grund; Meeresgrund

[EN] sea bed

[FR] fond de la mer; fond marin

Grund,Grundierung /INDUSTRY-CHEM/

[DE] Grund; Grundierung

[EN] first coat; priming

[FR] couche de fond; impression

Grund,Sandbänke,Sandgrund,seichte Stelle,trockene Stelle /SCIENCE/

[DE] Grund; Sandbänke; Sandgrund; seichte Stelle; trockene Stelle

[EN] sand bank; sandbar; shallow place

[FR] banc; banc de sable

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Grund

reason

Grund

bottom

Metzler Lexikon Philosophie

Grund

Aufgrund des Bedeutungsspektrums ist der Sache nach zu unterscheiden zwischen Erkenntnis-G. als logischer Voraussetzung eines Urteils, einer Überzeugung oder eines Arguments; Handlungs-G. als Motiv, Beweggrund einer Handlung und Kausal-G. als physikalischer Ursache eines Ereignisses. Nach Maßgabe des heutigen wissenschaftlichen Sprachgebrauchs fällt G. daher in seiner Bedeutung als Kausal-G. in die Begriffsfelder Erklärung, Kausalität; als logischer G., Beweis-G. in die Begriffsfelder Begründung, Argumentation und schließlich als Motiv in das Feld Handlung. – Unter Kausalgründen im Sinne von Ursachen von Ereignissen können diejenigen Tatsachen verstanden werden, die in den singulären Antezedensbedingungen der Kausalerklärung von Ereignissen angegeben werden. In der Verwendung als Kausal-G. dominiert die objektiv-deskriptive Komponente. Bei Argumentationen und insbesondere bei Handlungs-G. tritt, zumal im ethischen Sprachgebrauch, eine normative Komponente hinzu (Legitimation). – Sprachgeschichtlich verweist G. auf die Vorstellungen Tiefe, Ursprung, inneres Wesen. Dieser metaphorische Gehalt prägt auch seine Verwendung in der dt. Mystik des 14. und 15. Jh., wo G. z.T. synonym zu Geist, Seele gebraucht wird und zugleich Gott bezeichnet. Meister Eckhart verbindet beide Aspekte in seiner neuplatonisch geprägten Konzeption des Seelen-G.es und kennzeichnet damit die Gottähnlichkeit des Menschen. – Im »vorkritischen« dt. Rationalismus liegt im Satz vom G. (Principium rationis sufficientis) der Hauptakzent auf der kausalen Bedeutung. Der Satz vom G. hat jedoch einen logisch-ontologischen Doppelcharakter: Er enthält die Präsupposition einer durchgängigen objektiven Ereigniskausalität und kennzeichnet ebenso das logisch-argumentative Prinzip der universalen Begründbarkeit von Urteilen. So erscheint der Satz vom G. etwa bei Wolff und Leibniz als logisches und zugleich metaphysisches Erklärungsprinzip. Kant hingegen weist in seiner Kritik der traditionellen Metaphysik den metaphysischen Geltungsanspruch zurück und setzt den Satz vom G. als universales logisches Prinzip der Gegenstandserkenntnis voraus. Kant zufolge ist er »der G. möglicher Erfahrung, nämlich der objektiven Erkenntnis der Erscheinungen, in Ansehung des Verhältnisses derselben in Reihenfolge der Zeit« (KrV A 201/B246). Er gilt »ohne Ausnahme von allen Dingen als Erscheinungen im Raume und Zeit, aber keineswegs von Dingen an sich selbst« (Akad.-Ausg. 8, 213). Schopenhauer unterscheidet klar vier Bereiche: den physischen, mathematischen, logischen und ethischen G., deren jeder einer Klasse von Objekten entspricht. Als gemeinsame Grundlage aller apriorischen Formen ist der Satz vom G. für Schopenhauer das zentrale Konstituens der Vernunft und deshalb ebenfalls die »Grundlage aller Wissenschaft«.

JH

LIT:

  • D. Follesdal u.a.: Rationale Argumentation. Berlin u.a. 1986
  • Forum fr Philosophie Bad Homburg (Hg.): Philosophie und Begrndung. Frankfurt 1987
  • A. Schopenhauer: ber die vierfache Wurzel des Satzes vom zureichenden Grund (Smtl. Werke 7). Wiesbaden 1950
  • W. Stegmller: Probleme und Resultate der Wissenschaftstheorie und Analytischen Philosophie. Bd 1: Wissenschaftliche Erklrung und Begrndung. Berlin u.a. 1974
  • M. Wolff: Der Satz vom Grund, oder: Was ist philosophische Argumentation. In: Argumentation in der Philosophie, Neue Hefte fr Philosophie 26 (1986). S. 89114.