TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

sein

Tồn tại

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Hiện Hữu

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Hữu Thể

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

tồn tại.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bác sĩ riêng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

quần đảo ở vùng Đông Nam Á

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều gì làm cho ai rất lo lắng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều lo lắng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều lo âu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều băn khoăn

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

điều làm nghĩ ngợi

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự quan tâm

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự chăm sóc

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sự chăm nom

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thì

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

là

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

dùng làm trợ động từ khi thành lập câu ở thì Perfekt

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

dùng làm trợ động từ khi thành lập câu ở thể bị động

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

của nó

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

của ông ấy

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hư vô và trở thành

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

sein

being

 
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

nothing and becoming

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

sein

Sein

 
Metzler Lexikon Philosophie
TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

nichts und werden

 
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

keine Sorge, wir schaffen das schon

đừng lo, chúng ta sắp làm xong rồi.

mach dir darum od. darüber od. deswegen keine Sorge

đừng băn khoăn về vấn đề ấy.

für etwj (Schweiz, auch

) einer Sache (Dat)

müde sein

buồn ngủ

wie alt bist du?

cháu bao nhiêu tuổi?

ich bin 15 Jahre alt

cháu mười lăm tuổi

er ist noch am Leben

anh ấy vẫn còn sống

sie ist in Gefahr

cô ấy đang gặp nguy hiểm

es ist besser so

như thế thì tốt hơn

dem ist nicht

der Zug ist eingetroffen

tàu hỏa đã đến.

das Fenster ist geöffnet

cửa sổ đã mở

damit waren wir gerettet

nhờ đó chúng tôi được cứu thoát.

sein Hut

cái mũ của anh ấy, seine Kinder: các con của ông ấy

ich lese sein Buch

tôi đọc quyển sách của anh ấy

sind das deine Handschuhe oder seine?

đó là đôi găng tay của con hay của nó?

ich hatte meine Werkzeuge vergessen und benutzte die seinen

tôi đã quên dụng cụ của mình và phải dùng (dụng cụ) của anh ấy. Sein, das

-s (Philos.)

sự tồn tại, sự hiện hữu

Sein oder Nichtsein, das ist hier die Frage

tồn tại hay không tồn tại, đó mới là vẩn đề.

Từ điển triết học HEGEL

Tồn tại, Hư vô và Trở thành (sự) [Đức: Sein, Nichts und Werden; Anh: being, nothing and becoming]

Trong tiếng Đức, nguyên thể của động từ “là” (Anh: “to be”) là “sein”. Giống như những động từ nguyên thể khác trong tiếng Đức, nó có thể được sử dụng như một danh từ: (das) Sein!(sự) tôn tại. Động từ “sein”có một hiện tại phân từ là seiend, được sử dụng như một tính từ (“đang là” hay “hiện hữu”, “tồn tại”) hoặc như một danh từ: das Seiende (cái tồn tại). Được sử dụng như động từ, sein có thể mang tính biểu thị, nhận diện hay khẳng định sự hiện hữu. Là danh từ, Sein nói lên sự tồn tại hay hiện hữu của sự vật nói chung, tương phản với sự tồn tại NHÂT ĐỊNH (Dasein) của chúng. Trong lịch sử triết học, Hegel gắn sự tồn tại với Parmenides, là người cho rằng: vì cái gì tồn tại/ỉà thì không thể không-tồn tại, nên tồn tại loại trừ mọi sự PHỦ ĐỊNH, quy định và trở thành.

Phủ định của Sein đúng ra là Nichtsein (“không-tồn tại”), nhưng Hegel lại không dùng từ này, mà dùng chữ nichts (“hư vô”), hay danh từ được tạo thành từ nó: (das) Nichts/“(cải) hư vô”, vì lẽ khái niệm về sự không- tồn tại là hoặc có thể được nắm lấy như là được trung giới, nghĩa là, được sinh ra từ sự phủ định của Sein hon là có tính trực tiếp hay nguyên thủy giống như cách [tồn tại] của Sein. (Bản thân Nichts là sinh cách/genitive của niht trong tiếng Đức trung đại (từ chữ ni-wiht), còn nicht là đối cách/ accusative. Nhưng, các bước trung giới phức tạp này không hiển thị trong tiếng Đức hiện đại).

Das Werden/“sự trở thành”, được tạo nên từ động từ werden/“trở thành”. (Werden cũng được sử dụng như trợ động từ ở thì tưong lai và như động từ thụ động: do đó ich werde fahren là “tôi sẽ đi” và geliebt werden là “được yêu thích”). Với Hegel, sự trở thành gắn liền với Heraclitus, là triết gia cho rằng vạn sự vạn vật đều không đứng yên trong tồn tại, mà trong sự trở thành và xung đột liên tục. Plato tán thành học thuyết này đối với thế giới hiện tượng, và trong đối thoại Timaeus, ông cho rằng từ “tồn tại” chỉ nên được dùng cho những MÔ THỨC hay những Ý NIỆM bất biến, còn từ “trở thành” mới được áp dụng cho thế giới HIỆN TƯỢNG thoái hóa. Các triết gia Hy Lạp hậu kỳ, phần lớn đều chia sẻ quan niệm của Plato: chuộng tồn tại hon là sự trở thành. Ngược lại, các nhà tư tưởng Đức, lại chuộng sự trở thành hon là sự cứng nhắc của tồn tại và áp dụng “sự trở thành” cho sự PHÁT TRIỂN đầy xung đột của LỊCH sử và sự SỐNG. Meister Eckhart xem sự trở thành là BẢN CHẤT của Thượng Đế. Châm ngôn của Goethe: “Hãy trở thành chính mình!” đã được Nietzsche lập lại trong “Zarathustra đã nói như thế”(1883/8T), gán những gì đang trở thành cho LÝ TÍNH (“là cái thưởng thức sự phát triển”), còn cái gì đã trở thành, do đó, đang tồn tại, đang là, cho GIÁC TÍNH (“là cái muốn bám chặt sự vật để có thể sử dụng”). Như Nietzsche đã viết trong Khoa học vui tươi (1882): “Người Đức chúng ta đều là môn đệ của Hegel, kể cả khi không có một ông Hegel nào cả, vì, khác với các nước La-tinh khác, một cách bản năng, ta đã gán một ý nghĩa sâu xa và phong phú cho sự trở thành, cho sự phát triển, hon là cho cái gì “đang là”; ta rất khó tin vào sự biện minh cho khái niệm “tồn tại””.

Giống Heraclitus, Hegel xem sự đối lập và xung đột là thuộc về bản chất của sự trở thành. Ông cũng thấy bản thân thế giới và những khái niệm nhờ đó chúng ta phạm trù hóa nó, là đang trở thành hơn là tĩnh tại. Cái TUYỆT ĐỐI không phải là thực thể bất biến làm nền tảng cho nhưng nỗ lực của ta để hiểu nó, mà chính là sự phát triển của những nỗ lực này. Tương tự như thế, KHOA HỌC không phải là một chuỗi những kết quả độc lập với tiến trình nhờ đó ta đi đến được với chúng, mà thiết yếu là việc tiến hành tiến trình ấy. Nhưng không giống như Nietzsche và Heraclitus (theo diễn giải của Hegel), Hegel không vứt bỏ toàn bộ sự tồn tại để thay chỗ bằng dòng chảy biến dịch không ngừng nghỉ. Những khoảng ngừng của sự tồn tại ổn định tương đối, lĩnh vực của giác tính hơn là lý tính, đều là thiết yếu đối với thế giới, với hệ thống khái niệm của Lô-gíc học, và với đời sống xã hội và chính trị.

Nghiên cứu chủ yếu của Hegel về tồn tại, hư vô và trở thành xuất hiện trong Lô-gíc học của ông. Ở đây, “tồn tại” được sử dụng trong hai cách chủ yếu. Thứ nhất, tương phản với “Bản chất” và “KHÁI NIỆM”, “Tồn tại” là chủ đề của phần thứ nhất trong ba phần của Lô-gíc học (“Học thuyết về Tồn tại”), tức về những đặc tính “trực tiếp”, trên bề mặt của sự vật, về mặt lượng lẫn mặt chất, tương phản với bản chất bên trong và với cấu trúc khái niệm của chúng. Trong Lô-gíc học cũng như trong các tác phẩm khác (chẳng hạn trong TTTĐ), Hegel tiếp tục dùng “tồn tại” như là phản đề của “TƯ DUY” và “khái niệm”.

Thứ hai, trong “Học thuyết về Tồn tại”, “tồn tại (thuần túy)” chỉ phạm trù đầu tiên, “trực tiếp” như là điểm xuất phát của Lô-gíc học. Tồn tại (thuần túy) là sự bắt đầu thích hợp, vì, khác với Dasein (“tồn tại nhất định/tồn tại hiện có”), nó chưa có sự phức tạp nội tại đòi hỏi sự phát triển bên trong của Lô-gíc học: áp dụng “tồn tại” cho bất kỳ điều gì là đơn giản bảo rằng nó tồn tại, là không quy cho nó bất kỳ tính quy định về chất nào. (Trong HTHTT, Hegel cho rằng sự xác tín cảm tính dẫn tới sự tồn tại “trống rỗng” như thế). Nhưng vì lẽ tồn tại thuần túy là hoàn toàn bất định, nên tồn tại sẽ dẫn tới hay “trở thành” hư vô. Ngược lại, hư vô cũng hoàn toàn không được quy định nên cũng là hay trở thành tồn tại. Do đó tồn tại và hư vô, mỗi cái đều trở thành cái kia, và vì thế tạo nên khái niệm về sự trở thành. (Sự trở thành cũng tiến hành, hay cũng là sự “thống nhất” của cả hai: tồn tại và hư vô, ở chỗ sự trở thành là việc đi đến chỗ tồn tại của cái gì vốn đã không tồn tại, hoặc việc ngưng không còn tồn tại của cái gì đã tồn tại). Nhưng sự trở thành cũng không vững chắc, bởi nó chứa đựng một cách đầy mâu thuẫn cả tồn tại và hư vô, nên nó sụp đổ vào trong Dasein (tồn tại nhất định/tồn tại hiện có).

Trường đoạn này trong Khoa học Lô-gíc đã lôi cuốn các nhà chú giải cũng như các nhà phê phán Hegel - trong số họ là Feuerbach - ngay từ khi nó mới xuất hiện lần đầu tiên. Phải chăng tư tưởng về tồn tại thuần túy là một tư tưởng thật sự? Nó là trực tiếp, hoặc thực ra đã tiền- giả định một sự dự đoán về chỗ kết thúc của Khoa học Lô-gíc, tức ý niệm tuyệt đối? Làm sao những khái niệm có thể trở thành, hay chuyển sang nhau (übergehen), thay vì quan hệ với nhau một cách tĩnh tại bằng sự đồng nhất, sự khác biệt (hay bằng mối quan hệ phức tạp hon nào đó về sự đồng nhất-trong-khác biệt)? Tại sao sự trở thành là kết quả thích đáng duy nhất của sự bất ổn định của tồn tại và hư vô? Một số những khó khăn này có thể phần nào được giảm thiểu, nếu ta nhớ đến bối cảnh tranh luận thần học và siêu hình học khi Hegel viết và liên hệ trong đoạn văn trên đây của Khoa học Lô-gíc. Các triết gia đương thời của Hegel thường thích đề ra những yêu sách như: “Thượng Đế (hay cái tuyệt đối) là tồn tại (hay là tồn tại thuần túy)” hoặc: “Cái tuyệt đối là sự bất phân biệt thuần túy/sự đồng nhất”. (Hegel tin rằng “sự đồng nhất tuyệt đối”, hay bất kỳ sự diễn đạt nào khác, là tương đương với “tồn tại”, nếu nó diễn đạt một khái niệm có tính trực tiếp). Nhưng, theo Hegel, nếu không có gì là đúng (hay có thể biết được) về THƯỢNG ĐẾ hay cái TUYỆT ĐỐI ngoài việc cho rằng đó là sự tồn tại, thì những yêu sách ấy cũng không khác gì với yêu sách cho rằng Thượng Đế hay cái tuyệt đối là hư vô hay không tồn tại. Bởi ngược lại, cho rằng Thượng Đế không tồn tại hay là hư vô thì cũng không vững chắc giống như thế, và sẽ dẫn đến chỗ nói rằng Thượng Đế tồn tại. (Một nhà vô thần có thể tranh cãi về bước lập luận này, nhưng Hegel tin rằng bất kỳ yêu sách nào có tính khái niệm về thực tại thì đều là một yêu sách về Thượng Đế hay cái tuyệt đối, và chí ít cũng là một thuyết hữu thần tối thiểu). Con đường duy nhất để thoát ra khỏi sự bất ổn định ấy là phải phát triển và lấp đầy những khái niệm được ta áp dụng vào cho cái tuyệt đối.

Hegel cho rằng khái niệm về “tồn tại thuần túy” là được bao hàm mặc nhiên trong chữ “là” của câu phán đoán biểu thị, mà ông sẽ bàn trong “Học thuyết về Khái niệm”. (Phần 3 của KHLGỵ Còn trong chương khởi đầu này của Khoa học Lô-gíc, Hegel chưa phân biệt giữa ba nghĩa khác nhau của chữ “là”: biểu thị, nhận diện và hiện hữu. Một lý do cho điều này là khi bàn về sự phán đoán, Hegel có xu hướng nhập chung sự biểu thị và sự nhận diện. Nhưng lý do khác, có lẽ gần gũi hơn là ở chỗ: những sự phân biệt như thế chỉ có thể được rút ra sau khi đã du nhập những khái niệm cụ thể hơn so với khái niệm tồn tại: chẳng hạn sự phân biệt giữa “Thera là thô lỗ”, “Thera là người Santorini” và “Thera tồn tại” không thể được rút ra trước khi ta phát triển các khái niệm như “CÁI CÁ BIỆT” và “CHẤT”, trong ví dụ trên đây là “Thera” và “thô lỗ”. Nhưng điều này lại không được phép thực hiện ở cấp độ của tồn tại thuần túy: những khái niệm cụ thể hơn phải được tái tạo một cách lô-gíc chứ không thể được tiền-giả định ngay ở khởi điểm. Cũng thế, yêu sách rằng: “Thượng Đế tồn tại” (cũng như “Thượng Đế là hư vô, không tồn tại”), sở dĩ là trống rỗng vì Hegel phủ nhận bất kỳ nội dung nào được gán cho từ “Thượng Để’ mà tách rời khỏi những gì có thể làm được trong cấp độ này của Tô-gíc học, đó là cấp độ của sự tồn tại.

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Từ điển triết học Kant

Tồn tại [Hy Lạp: tò ón; Latinh: ens; Đức: Sein; Anh: being]

Xem thêm: Hiện thực (tính), Bản chất, Hiện hữu, Hư vô, Hữu thể (Bản thể) học, Tổng hợp,

Nghiên cứu của Kant về tồn tại thừa kế một sự phát triển triết học lâu đời và phức hợp về chủ đề này, một chủ đề mà tầm ý nghĩa của nó vẫn còn được tranh cãi căng thẳng. Với Aristoteles trong Metaphysics [Siêu hình học], câu hỏi về tồn tại - “Tồn tại là gì?” - “được khơi ra từ thời xa xưa và được khơi ra thời nay và luôn mãi, và luôn luôn là chủ đề của sự hoài nghi” (Aristoteles, 1941, 1028b, 2). Cách tân có ý nghĩa nhất của Kant là việc biến những chủ đề và những sự phân biệt truyền thống thành thuật ngữ hiện đại, diễn đạt lại vấn đề truyền thống về mối quan hệ giữa tồn tại và logos bằng sự phán đoán. Chính trên cơ sở của những sự phân biệt đã được thừa nhận lẫn sự tái diễn đạt của Kant, ông đã phát triển những sự phân biệt hệ trọng giữa tồn tại, hiện thực (tính) và hiện hữu.

Xuất phát điểm truyền thống cho câu hỏi về Tồn tại trong triết học Tây phương là những tản văn của Parmenides (thế kỷ VI tr CN). Ở đó, Tồn tại được phân biệt với Không-Tồn tại bằng sự phân biệt giữa con đường của chân lý với con đường của tư kiến. Không thể có bất kỳ sự chuyển tiếp nào từ Không-Tồn tại đến Tồn tại, không có bất kỳ sự thay đổi hay vận động nào; Tồn tại là tất cả những gì có thể được biết, và là cái Một [Nhất thể] (Barnes, 1987, tr. 129-142). Những vấn đề được Parmenides đặt ra và những sự nhấn mạnh chúng trong những nghịch lý của Zeno đã được thế hệ các triết gia Hy Lạp theo sau, trên hết là Platon và Aristoteles, xử lý. Nghịch lý là, Platon vừa làm mềm đi vừa làm mạnh thêm sự phân biệt của Parmenides giữa Tồn tại và Không-Tồn tại. Cái sau không còn là cái đối lập tuyệt đối với Tồn tại, mà tham dự vào Tồn tại theo nhiều cấp độ khác nhau; Tồn tại cùng lúc xuyên suốt các ý niệm cũng như xuyên suốt một ý niệm tự thân ở cấp độ cao hơn. Tuy nhiên, Aristoteles trong Siêu Hình Học lại nhấn mạnh sự tham dự của những tồn tại riêng rẽ trong Tồn tại nói chung, xác lập một kho những phương cách có thể nói về Tồn tại của những cái tồn tại (xem Aristoteles, 1941, 1012a). Ông đưa ra một phân biệt cốt yếu giữa energeia với dynamis, mà sau này đã phát triển trước hết thành sự phân biệt giữa esse với essentia, rồi sau đó thành sự phân biệt giữa sự hiện hữu (existence) và hiện thực (tính) (actuality).

Trong sự tiếp nhận di sản cực kỳ đa dạng của tư tưởng Hy Lạp về Tồn tại của mình, những nhà bình giải Hồi giáo và Kitô giáo trung đại đã hệ thống hóa một số đặc điểm nổi bật hơn của di sản ấy. Nghi vấn cơ bản của sự mô tả những phương cách đa dạng mà trong đó Tồn tại có thể được nói lên bởi những cái tồn tại vẫn còn dai dẳng, như sự thức nhận về tính chất nan đề [aporetic] của mối quan hệ ấy (Booth, 1983). Và như trong Platon và Aristoteles, tồn tại tiếp tục được hiểu như một thuật ngữ “siêu nghiệm” vốn không thể được biến thành vị từ [thuộc từ] trên phương diện phạm trù. Đối với truyền thống Thomas, sự tồn tại chỉ có thể biến thành vị từ [thuộc từ] trên phương diện loại suy - tức sự tồn tại của Thượng đế và sự tồn tại của thế giới đều chỉ là cùng một thứ như nhau trên phương diện loại suy. Đối với truyền thống Scott, sự tồn tại có thể được biến thành vị từ theo một nghĩa duy nhất, khi nó được áp dụng cho thế giới lẫn cho Thượng đế. Các nhà Kinh viện nhất trí phân biệt giữa Tồn tại như sự Hiện hữu, Tồn tại như Hiện thực, với Tồn tại như là Tồn tại: Tồn tại như sự Hiện hữu, hoặc esse biểu đạt sự hiện hữu của một bản chất, như trong “sự tôn tại” của con người; Tồn tại như essentia biểu đạt hiện thực cá biệt ở đây và lúc này của, chẳng hạn, người phụ nữ này hay người đàn ông này; trong khi Tồn tại như là Tồn tại, tức Tồn tại mà bản chất của nó là sự hiện hữu và hiện thực, được cho là chỉ có Thượng đế mới có thể có.

Những thuật ngữ và những sự phân biệt trong các bàn luận Kinh viện về Tồn tại tiếp tục xuyên suốt sự mở đầu tính hiện đại triết học của Descartes (xem Gilson, 1949). Mặc dù đối với Descartes và Teibniz (chứ không phải Spinoza), tiêu điểm cho câu hỏi về tồn tại của Thượng đế, của thế giới và của linh hồn đã chuyển từ Thượng đế đến linh hồn và sự xác tín của nó về sự hiện hữu riêng của nó, cấu trúc cơ bản của vấn đề vẫn còn dai dẳng. Đối với những nhà hiện đại, Tồn tại vẫn có tính vượt khỏi phạm trù, và không phải là cái gì đó có thể đơn giản bị biến thành vị từ trong một phán đoán giống như bất kỳ vị từ khác. Với họ, esse lúc này biểu đạt (tính) khả thể, hoặc cái gì không có sự mâu thuẫn, trong khi essentia là những hiện tượng nào được tri giác là đang tồn tại, trong khi tồn tại như là tồn tại, bây giờ được cho là quy chiếu đến tồn tại tự thân có đặc quyền, hoặc điều này được mô tả bằng Thượng đế hoặc causa sui [nguyên nhân tự thân], chủ thể, hoặc tồn tại-tự-thân của khoa học mới, hậu-Descartes về hữu thể học.

Bàn luận của Kant về Tồn tại đi theo tiền lệ trong việc tuyên bố rằng Tồn tại có thể được nói lên bằng nhiều cách, nhưng đối với ông, cái gì chung cho tất cả những phương cách ấy đều là khái niệm về sự tổng hợp. Trong HHTĐ, ông định nghĩa khái niệm về Tồn tại (Sein) dựa theo một “sự thiết định hay thiết lập” (tr. 73, tr. 119) vốn nằm dưới những mối quan hệ của phán đoán logic, mô tả nó như “việc thiết định mối quan hệ này không gì khác hơn là hệ từ trong một phán đoán” (tr. 73, tr. 119). Ở đây, sự Tồn tại biểu thị một sự tổng hợp thuần túy logic, một sự tổng hợp thao tác ở cấp độ bản chất (esse), một sự tổng hợp phù hợp với luật mâu thuẫn.

Tuy nhiên, khi cả cái quan hệ và cái được quan hệ được thiết định, thì tồn tại trở thành hiện hữu, và được nói lên như essentia; tức là, bằng cả những mối quan hệ hiện thực và logic.

Trong PPLTTT, Kant hầu như lặp lại sự phân biệt trước đây này, nhưng tiếp tục sử dụng nó để phản bác sự chứng minh bản thể học về sự hiện hữu của Thượng đế. Tồn tại không phải là một vị từ, nó không thêm vào gì cho chủ từ của một phán đoán, nhưng diễn tả “khả thể mà nhờ đó tôi suy tưởng được về đối tượng của nó” (PPLTTT A 599/ B 627). Phát biểu rằng “có [tồn tại] một Thượng đê” có thể không có mâu thuẫn gì. Nó là một phưong cách nói về tồn tại ở cấp độ bản chất [esse], nhưng nó không nói gì về sự hiện hữu của đối tượng của nó. Nếu chúng ta muốn nói về tồn tại dựa theo sự hiện hữu, thì chúng ta phải lưu ý đến những điều kiện cho nhận thức tổng hợp, vì “ý thức của chúng ta về mọi sự tồn tại (dù trực tiếp thông qua tri giác, hay gián tiếp thông qua các suy luận có nối kết với một cái gì với tri giác) đều hoàn toàn chỉ thuộc về sự thống nhất của kinh nghiệm” (PPLTTT A 601/ B 629). Viễn tượng phê phán này đã cho phép Kant xác định một cách kỹ lưỡng những cách thức trong đó tồn tại có thể nói lên bằng sự quy chiếu đến hiện thực, hoặc nguyên tắc tưong ứng với phạm trù tình thái thứ hai là Tồn tại/ Không-Tồn tại.

Với những bình luận ấy, có vẻ như thể Kant đang định tính chất một cách nghiêm ngặt cho tầm ý nghĩa truyền thống về Tồn tại. Điều này có vẻ chắc chắn là đúng với Hegel, người đã nỗ lực khôi phục câu hỏi về Tồn tại bằng cách mang lại cho nó một sự khảo sát mới trong Khoa học Logic (1812). Cũng có vẻ như đúng với Nietzsche, người đã xem mình như đã triệt để hóa thức nhận của Kant vào tính chất ảo tưởng của tồn tại bằng việc mô tả nó như một “sự hư ảo đơn thuần”. Theo một trào lưu lý giải cực kỳ ảnh hưởng, Kant đánh dấu bước chuyển trong lịch sử triết học từ bản thể học sang tri thức luận. Tuy nhiên, trong thế kỷ XX, các cách đọc Kant của Heidegger (1929) và Heimsoeth (1956) trên phưong diện bản thể học đã nghiêm túc xem xét yêu sách của Kant muốn thay thế bản thể học bằng một “phân tích pháp vê giác tính”. Heidegger đặc biệt đã chỉ ra tầm ý nghĩa bản thể học của sự tổng hợp nổi Kant, và vai trò cốt yếu mà sự tưởng tượng đã đóng trong sự tổng hợp ấy (1929). Những cách đọc ấy đã tỏ ra cực kỳ có ảnh hưởng trong việc khôi phục lại những cấu trúc của bản thể học truyền thống vốn tiếp tục xuyên suốt trong triết học phê phán.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

sein /rất thích hợp đồ'i với ai. 3. thân (người hay thú). 4. (geh.) bụng, dạ, lòng, nội tạng (der Bauch). 5. (veraltet) cuộc sống (Leben). 6. (Archịt.) cột, trụ (Schaft). Leib.arzt, der/

bác sĩ riêng;

sein /(nur mit Art.; PL)/

quần đảo ở vùng Đông Nam Á;

sein /đang lo lắng cho ai/về việc gì; etw. erfüllt jmdn. mit Sorge/

điều gì làm cho ai rất lo lắng;

keine Sorge, wir schaffen das schon : đừng lo, chúng ta sắp làm xong rồi.

sein /đang lo lắng cho ai/về việc gì; etw. erfüllt jmdn. mit Sorge/

điều lo lắng; điều lo âu; điều băn khoăn; điều làm nghĩ ngợi;

mach dir darum od. darüber od. deswegen keine Sorge : đừng băn khoăn về vấn đề ấy.

sein /đang lo lắng cho ai/về việc gì; etw. erfüllt jmdn. mit Sorge/

(o Pl ) sự quan tâm; sự chăm sóc; sự chăm nom;

für etwj (Schweiz, auch : ) einer Sache (Dat)

sein /[zain] (unr. V.; ist)/

thì; là (nói về chất lượng, tình trạng, trạng thái, tính chết V V );

müde sein : buồn ngủ wie alt bist du? : cháu bao nhiêu tuổi? ich bin 15 Jahre alt : cháu mười lăm tuổi er ist noch am Leben : anh ấy vẫn còn sống sie ist in Gefahr : cô ấy đang gặp nguy hiểm es ist besser so : như thế thì tốt hơn dem ist nicht :

sein /(unr. V.; ist)/

dùng làm trợ động từ khi thành lập câu ở thì Perfekt (quá khứ hoàn thành);

der Zug ist eingetroffen : tàu hỏa đã đến.

sein /(unr. V.; ist)/

dùng làm trợ động từ khi thành lập câu ở thể bị động;

das Fenster ist geöffnet : cửa sổ đã mở damit waren wir gerettet : nhờ đó chúng tôi được cứu thoát.

sein /(Possessivpron.)/

của nó; của ông ấy (tính từ và đại từ sở hữu của danh từ giống đực và giông trung ở số ít);

sein Hut : cái mũ của anh ấy, seine Kinder: các con của ông ấy ich lese sein Buch : tôi đọc quyển sách của anh ấy sind das deine Handschuhe oder seine? : đó là đôi găng tay của con hay của nó? ich hatte meine Werkzeuge vergessen und benutzte die seinen : tôi đã quên dụng cụ của mình và phải dùng (dụng cụ) của anh ấy. Sein, das -s (Philos.) : sự tồn tại, sự hiện hữu Sein oder Nichtsein, das ist hier die Frage : tồn tại hay không tồn tại, đó mới là vẩn đề.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Sein /n -s/

sự] tồn tại.

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Sein

[VI] Tồn tại

[DE] Sein

[EN] being

TĐ-Triêt-Nguyến Hữu Liêm

Sein

[EN] being

[DE] Sein

[VI] Hiện Hữu

[VI] hiện diện của hữu thể

Sein

[EN] being

[DE] Sein

[VI] Hữu Thể

[VI] tính thể hiện hữu

Metzler Lexikon Philosophie

Sein

(griech. to einai; lat. esse). Einer der grundlegenden, aber auch vieldeutigsten und bis in die Gegenwart umstrittenen Begriffe in der abendländischen Philosophie, dessen Bedeutung je nach Verwendung in einer bestimmten philosophischen Disziplin oder einem bestimmten Kontext erheblich variiert.

Seit den Vorsokratikern, insbesondere bei Parmenides fungiert S. als metaphysischer Zentralbegriff, insofern das S. die innere Einheit und Notwendigkeit alles Seienden begründet: Nur Seiendes kann als Wahres gedacht werden, Nichtseiendes ist unmöglich. – Platon relativiert gerade in seinen Spätdialogen diese strenge Disjunktion von S. und Nichtsein durch das Prinzip der Teilhabe eines Verschiedenen bzw. Andersseienden am S., da die Möglichkeit des Sprechens über Nichtseiendes zeigt, dass dieses in irgendeiner Weise ist. Nach dem Prinzip der Teilhabe ist auch das höchste, unveränderliche, ewige S. der Ideen vom zeitlich-kontingenten S. der sinnlich wahrnehmbaren Einzelgegenstände zu unterscheiden. – Eine grundsätzlich andersartige Differenzierung der Bedeutungsvarianten von S., deren Wirkungsgeschichte bis in die Gegenwart hineinreicht, findet sich bei Aristoteles. Aristoteles unterscheidet nicht nur ausdrücklich den substantivierten Infinitiv von S. (to einai) vom substantivierten Partizip Präsens: »das Seiende« (to on), sondern er begründet auch mit der Frage nach dem jedem Einzelding wesensmäßig zukommenden S. diejenige Wissenschaft, welche das Seiende als Seiendes (to on he on) zu erfassen sucht, die Ontologie. Aristoteles zeigt, dass S. kein einheitlicher Gattungsbegriff ist, sondern die verschiedenen kategorialen Verwendungen des Begriffs in einem Analogie-Verhältnis zueinander stehen, wobei jedoch dem Begriff der Substanz, der »Seiendheit« bzw. dem »Wesen« (griech. ousia, lat. essentia) eine herausgehobene Stellung zukommt, denn diese allein macht es möglich, ein Einzelding als ein solches zu identifizieren. Alle anderen Bedeutungen von S.: Existenz, Wirklichsein/Möglichsein, Wahrsein/Falschsein, sowie das S. im Sinne der Ursachen und Kategorien sind auf das eine Substanzsein hin (pros hen) ausgerichtet, d.h. sie dienen allein dazu, die immanenten Voraussetzungen von Einzeldingen, sofern diese sind, zu klären. Da die verschiedenen Bedeutungsvarianten von S. nach Aristoteles’ Konzeption am Seienden quasi »abgelesen« werden, kommt diesen sowohl ein ontologischer wie sprachlich-logischer Status zu. – Während sowohl der Neuplatonismus mit der Identifikation von S. und Denken wie auch die Augustinische Entgegensetzung von göttlichem ungeschaffenen S. und kreatürlichem Seienden den Seinsbegriff noch als metaphysischen Zentralbegriff beanspruchen, bereitet bereits die Aristotelische Depotenzierung des S. zugunsten der »Substanz« die neuzeitliche Substanzmetaphysik vor. Die Differenz zwischen Seiendem und S. tritt im Laufe der Metaphysikgeschichte, z.B. bei Anselm von Canterbury zunehmend zurück; dagegen behaupten sich im MA. als grundlegende Unterscheidungen u. a. die von S. im Sinne von Existenz (existentia) und Wesen (essentia, quidditas) sowie von Notwendigsein und Möglichsein, so Thomas v. Aquin, wobei umstritten bleibt, ob S. univok, äquivok oder analog gelten soll. Ferner kennt auch die ma. Logik den Gebrauch von S. im Sinne der Kopula nach dem Muster »S ist P«. Mit Beginn der Neuzeit bei Descartes und Spinoza verliert der Seinsbegriff seine dominierende Stellung innerhalb der Metaphysik zugunsten des Substanzbegriffs, zugleich wird auf inhaltlicher Ebene der zentrale Dualismus von ideellem S. der »res cogitans« und körperlichem S. der »res extensa« propagiert, den Leibniz’ Konzeption eines monadologischen S.s der einfachen, unteilbaren Substanzen wieder zu überwinden sucht (Monadologie). – Eine weitere, wirkungsgeschichtlich bedeutsame, Depotenzierung des Seinsbegriffs, die z.T. schon durch den ma. Nominalismus vorbereitet wird, vollzieht sich in Kants kritischer Philosophie, insbesondere mit der Kritik am ontologischen Gottesbeweis in der Kritik der reinen Vernunft: S. ist kein »reales Pädikat« (KrV A 598/B 626), d.h. keine positive sachhaltige Bestimmung irgendeines Erkenntnisgegenstandes, sondern bezeichnet entweder die bloße »Position«, d.h. Setzung eines Dinges oder dient innerhalb der Logik als Kopula nur der Verknüpfung von Begriffen. Sofern der »Wert der Copula in Beziehung auf das Denken überhaupt« angegeben werden soll (KrV A 74 f./B 99 f.), geschieht dies nach den Kategorien der Modalität: Möglichkeit – Unmöglichkeit, Dasein – Nichtsein, Notwendigkeit – Zufälligkeit (KrV A 80/B 106). – Diese Beschränkung des S.s auf die Funktionen der Position und der Kopula wird im Deutschen Idealismus, v.a. von Hegel in der Wissenschaft der Logik, wieder zurückgenommen: Zwar ist das »reine Sein« (Gesammelte Werke Bd. 11, Hamburg 1978, S. 43 f.) im Sinne des »unbestimmten Unmittelbaren« der abstrakteste und leerste Begriff und insofern gleichbedeutend mit dem »Nichts«, doch entspringt aus der Dialektik beider Begriffe das »Werden« und damit die gesamte weitere dialektische Begriffsentwicklung bis hin zur »absoluten Idee«. – Der dialektische Materialismus des 19. Jh. thematisiert besonders den Gegensatz zwischen ideelem S. und materiell-gesellschaftlichem S., ohne dass ein grundsätzlich neuartiger Allgemeinbegriff von S. geprägt würde; desgleichen können auch die modale, prädikative und veritative Verwendung von S. sowie die Existenzprädikation im Rahmen der Logik wesentlich an traditionelle Differenzierungen anschließen.

Zu Beginn des 20. Jh. entwirft N. Hartmann eine ontologische Schichtenlehre, welche das »Reale« in verschiedene »Seinsschichten« zu untergliedern sucht; in anderer Weise strebt M. Schelers »Metaphysik des Weltgrundes« eine Typisierung des S.s nach »Realsein«, »Sosein«, »Wertsein« etc. an. – Eine grundlegende Neubestimmung des S.-begriffs unternimmt die Fundamentalontologie Heideggers, nach der die Seinsweise des geschichtlich, umwillen seiner selbst existierenden Daseins, die Existenz, von derjenigen des alltäglichen Umgangs mit Gebrauchsdingen, der Zuhandenheit, sowie der Seinsweise von Gegenständen, sofern sie der theoretischen Betrachtung unterliegen, der Vorhandenheit, abzuheben ist. Nur der Mensch als Dasein versteht sein eigenes S. und das von anderem Seienden im »Entwurf« desselben auf die Zeit. Da die gesamte abendländische Ontologie nach Heidegger das Seiende immer nur als Vorhandenes aufgefasst hat, trifft sie der Vorwurf der »Seinsvergessenheit«. – An Heideggers Neubestimmung des Existenzbegriffs, der zusätzlich nach den Modi der Eigentlichkeit und Uneigentlichkeit näher ausdifferenziert wird, knüpfen, unter z.T. gravierenden Umdeutungen, die Existenzphilosophie bzw. der Existentialismus des 20. Jh. an. – Innerhalb der modernen analytischen Philosophie fällt der Seinsbegriff einer z.T. vernichtenden Kritik anheim: Jeglicher Gebrauch von S. im Sinne der Transzendentalien ist sinnlos bzw. zeigt einen Kategorienfehler an, der zu Scheinproblemen führt. Nur hinsichtlich der normalsprachlichen Verwendung von »ist« können logisch sinnvolle Bedeutungsvarianten unterschieden werden.

DK%C3%96

LIT:

  • Aristoteles: Metaphysik. (griech.-dt.). Hamburg 21982/84
  • R. Carnap: Der logische Aufbau der Welt. Scheinprobleme in der Philosophie. Hamburg 21961
  • N. Hartmann: Zur Grundlegung der Ontologie. Meisenheim/Glan 31948
  • Ders.: Platons Logik des Seins. Berlin 21965
  • G. W. F. Hegel: Logik. Ges. Werke Bd. 11/12. Hamburg 1978 f
  • M. Heidegger: Sein und Zeit. Tbingen 121972
  • Ders.: Die Grundprobleme der Ontologie. Gesamtausgabe 24. Frankfurt 1975
  • Artikel Sein in HWPh. S. 170234
  • C. H. Kahn: The Verb ˲Be˱ in Ancient Greek. In: The Verb ˲Be˱ and its Synonyms. Philosophical and Grammatical Studies (6). Hg. J. W. M. Verhaar. Dordrecht 1973
  • I. Kant: Kritik der reinen Vernunft
  • J. Knig: Sein und Denken. Halle 1937
  • J.-P. Sartre: Das Sein und das Nichts. Reinbeck/Hamburg 1991
  • M. Scheler: Idealismus Realismus. In: Ges. Werke. Bd.9: Spte Schriften. Bern 1976
  • Thomas v. Aquin: ber das Sein und das Wesen (dt.-lat.). Darmstadt 1989
  • R. W. Trapp: Analytische Ontologie. Der Begriff der Existenz in Sprache und Logik. Frankfurt 1976
  • E. Tugendhat: Die Seinsfrage und ihre sprachliche Grundlage. In: Philosophische Rundschau 24 (1977). S. 161176.