TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

tôi

tôi

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Tự điển Cơ Khí Anh Việt
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ Điển Tâm Lý
Từ điển ô tô Anh-Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Từ điển triết học HEGEL
Thuật ngữ-WZB-Đức Anh Việt
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Trui

 
Thuật ngữ-WZB-Đức Anh Việt
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

ram

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)

ủ

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)

TA

 
Từ Điển Tâm Lý
Từ này chỉ có tính tham khảo!

MÌNH

 
Từ Điển Tâm Lý
Từ này chỉ có tính tham khảo!

dập tắt

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

làm nguội

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ủ .

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hóa cứng

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

u

 
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp

thấu

 
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp

bản ngã.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
cái tôi

Cái Tôi

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

bản ngã

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
tôi con

tôi con

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
tôi .

tôi .

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
sự tôi

sự tôi

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

tôi

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

Anh

tôi

hardening

 
Thuật ngữ-WZB-Đức Anh Việt
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Harden

 
Tự điển Cơ Khí Anh Việt
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

anneal

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp

obscure

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

 chilling

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 anneal

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 harden

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 temper

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 slake

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

anneal v.

 
Từ điển ô tô Anh-Việt

harden v.

 
Từ điển ô tô Anh-Việt

chill

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

hardened

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

quench

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

slake

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

temper

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

quenching

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

i/ego

 
Từ điển triết học HEGEL

i

 
Từ điển triết học HEGEL

ego

 
Từ điển triết học HEGEL

tempering

 
Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)

Self

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
cái tôi

The Ego

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

i

 
Từ điển triết học Kant

ego

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
sự tôi

quench

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

Đức

tôi

härten

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Thuật ngữ-WZB-Đức Anh Việt
Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt
Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

ich

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển triết học HEGEL

löschen

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ausheilen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp

Untertan in

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Diener

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

stählen

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

tôi

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

kühlen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

gehärtet

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

abschrecken

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

flachspritzen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ausglühen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

aushärten

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

anlassen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Abschreck-

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

abkühlen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

ablôschen

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

abharten

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

zu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

mein

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

unsereiner

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

ich/ego

 
Từ điển triết học HEGEL

ego

 
Từ điển triết học HEGEL

Tempern

 
Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)
cái tôi

Ich

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển triết học Kant

Das Ich

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
tôi con

Untertan

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Gesinde

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

Dienerschaft

 
Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức
tôi .

Stählung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Pháp

tôi

Moi

 
Từ Điển Tâm Lý
Từ này chỉ có tính tham khảo!

Ego

 
Từ Điển Tâm Lý
Từ này chỉ có tính tham khảo!

recuire

 
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp
Chuyên ngành CN Hóa (nnt)

Stahl für Flamm- und Induktionshärtung

Thép để tôi ngọn lửa và tôi cảm ứng

Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

Durchhärten Randschichthärten

Tôi suốt độ dày (Tôi toàn bộ) Tôi lớp biên

■ Härten

■ Tôi

Härten

Tôi

Härten

Trui, tôi

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

vergiss mein nicht!

xin đừng quên tôi!

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

mein ganzes Ich

toàn bộ bản chất của tôi;

liebe Ich

(mĩa mai) bản ngã, tự mình;

sein Ich nie vergessen

không bao giô quên quyền lợi của mình.

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Self

Tôi, bản ngã.

Từ điển luyện kim - Anh - Việt

quench

sự tôi, tôi

Thuật ngữ khoa học kỹ thuật Đức-Việt-Anh-Pháp

u,tôi,thấu

[DE] ausheilen

[VI] u, tôi, thấu

[EN] anneal

[FR] recuire

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ego

Bản ngã, cái tôi

Thuật ngữ - KUNSTSTOFF- Đức Việt Anh (nnt)

Tempern

[EN] tempering

[VI] Ram (thép), ủ, tôi

Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

harden

tôi, hóa cứng

Thuật ngữ - METALLKUNDE- Đức Anh Việt (nnt)

Härten

[VI] Tôi, trui

[EN] Hardening

Härten

[VI] Trui, tôi

[EN] Hardening

Thuật ngữ-TABMETALL- Đức Anh Việt

Härten

[EN] Hardening

[VI] Tôi, trui

Thuật ngữ-WZB-Đức Anh Việt

Härten

[EN] hardening

[VI] Trui, tôi

Từ điển triết học HEGEL

Tôi (cái) [Đức: Ich/Ego; Anh: I/ego]

Trong tiếng Đức thông thường, ich (tôi) là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, phân biệt với du (bạn), er/sie (anh/chị ấy), v.v. Nhưng nó cũng tạo ra danh từ das Ich (cái Tôi), quy chiếu đến TÍNH CÁ NHÂN hay ego (bản ngã) của một người (tương phản với das Nicht-Ich (cái không-tôi)), hoặc biểu thị một phần trong tính cá biệt của người ấy chẳng hạn besseres Ich (cái Tôi tốt đẹp hơn). “Cái Tôi” không còn tương phản với “bạn”, “anh/chị ấy”, v.v. nữa, vì tôi có thể nói về “cái Tôi của bạn” và “cái Tôi của anh/chị ấy” cũng như về “chính cái Tôi của tôi”; nó cũng có số nhiều, chẳng hạn, ta có thể nói rằng mọi người đều có hai cái Tôi (một cái Tôi thông thường và một cái Tôi tốt đẹp hơn).

Ta cũng có thể gán những đặc tính, trạng thái và hoạt động cho loài vật và những đối tượng vô tri vô giác cũng như cho con người. Nhưng chỉ duy con người ở một độ tuổi nào đó mới có thể gán những đặc tính, v.v. cho bản thân mình bằng cách sử dụng chữ “Tôi”. Cả người Hy Lạp cổ đại cũng đã có thể làm được điều này, nhưng theo Hegel, cái Tôi chỉ trở thành một chủ đề minh nhiên trong triết học qua “Cogito, ergo sum” [“tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”] của Descartes. Theo quan niệm của Descartes, cái Tôi không bao hàm mọi đặc tính mà một người có thể gán cho bản thân mình bằng cách sử dụng chữ “Tôi”, mà chỉ bao hàm tư tưởng của con người, gồm cả những trạng thái tinh thần mà người ấy có thể xác tín trực tiếp, nhưng không bao hàm những trạng thái cơ thể của người ấy, v.v. Do đó, Descartes suy ra rằng cái Tôi là một bản thể tư duy (res cogitans), có thể được gán cho những đặc tính như tính bản thể và sự bất tử. Việc Hume không tìm được một bản thể tư duy nào khi ông nhìn vào bên trong chính mình, hay không tìm được bất kỳ ấn tượng nào tương ứng với cái Tôi, đã dẫn ông đến chỗ không những phản bác bản thể tư duy mà phản bác cả cái Tôi xét như cái Tôi (tức cái Cogito). Tuy nhiên, Kant đã lập luận rằng, dù cái Tôi không phải là một thực thể mang tính bản thể, cái Tôi hay cái “Tôi tư duy” là tiền đề cho mọi BIỂU TƯỢNG (Vorstellungen/Anh: representations theo nghĩa rộng) của ta, và nhất thiết phải có thể đi kèm với mọi biểu tượng ấy. Cái Tôi lúc này loại trừ mọi trạng thái tinh thần cũng như thể chất, vì nó chỉ đơn thuần là chủ thể của KINH NGHIỆM. Bất kỳ điều gì tôi gán cho mình qua việc sử dụng chữ “Tôi” thì ipso facto (tự bản thân sự việc) đều là vị từ hay đối tượng của cái Tôi, chứ không phải là bản thân cái Tôi. Cái Tôi theo nghĩa này mang lại điểm xuất phát cho “lý thuyết nhận thức” của Fichte (và Schelling). Nhưng giờ đây, nơi Fichte và Schelling, cái Tôi, thoạt đầu, không tương phản với cái Tôi của những cá nhân khác hoặc với một cái Không-Tôi: nó đi trước sự dị biệt hóa giữa cái Tôi và cái Không-Tôi, cũng như giữa những cá nhân riêng lẻ. Nó là một lực sáng tạo làm phát sinh một cái Không-Tôi và bản thân sự phân biệt giữa “tôi” và “bạn”; nhưng nó làm vậy là nhờ vào những khó khăn lô-gíc nằm trong một cái Tôi không-tưong phản, bao quát-toàn bộ ấy. Cái tôi được Fichte, và thường được Hegel, quy chiếu đến như là “Tôi = Tôi”, đó là vì tất cả những gì có thể được gán cho nó chỉ là sự tự-đồng nhất, và vì, về bản chất, nó có tính tự-phản tư: nó chỉ hiện hữu và tự tạo ra chính mình là nhờ vào việc nó có ý thức về chính mình.

Hegel phản bác quan niệm rằng triết học, nhất là Lô-gíc học, phải bắt đầu bằng cái Tôi TUYỆT ĐỐI vì hai lẽ: hoặc cái Tôi = Tôi đòi hỏi sự TRUNG GIỚI có tính giải thích hoặc, nếu được xem như trực tiếp, thì tư ổng đưong với TỒN TẠI thuần túy (BKTI, §86). Dù vậy, ông xem năng lực mà chỉ con người mới có trong việc thoát ly [TRỪU TƯỢNG HÓA] khỏi mọi đặc tính được quy định và tập trung sự hiện hữu của mình vào một điểm đon giản của tồn tại-CHO MÌNH bằng cách nói “Tôi” là có tầm quan trọng tối cao. Tự DO Ý CHÍ và Tự-Ý THỨC của ta bắt nguồn từ năng lực này. Nhưng, cái Tôi-ý thức, tức ý thức về sự tự-đồng nhất đon giản của mình, chỉ là khởi điểm của tự-ý thức và của TINH THẨN: tự-ý thức trọn vẹn đòi hỏi sự ý thức về chính mình như một cư dân trong số những cư dân khác của một thế giới được thấm nhuần bởi TINH THẦN.

Cái Tôi, theo quan niệm của Hegel, có một số đặc điểm sau đây:

(1) Cái Tôi, về bản chất, là có tính tự-phản tư: cái Tôi-ý thức là điều kiện cần và đủ để ta là (hay có) một cái Tôi. Vì thế, cái Tôi không phải là một VẬT, hay một BẢN THỂ.

(2) Cái Tôi, xét như cái Tôi, là PHỔ BIẾN theo nghĩa hoàn toàn vô- quy định: cái Tôi-ý thức và việc xưng “Tôi” thoát ly khỏi mọi đặc tính nhất định của tinh thần, thân thể và hoàn cảnh vật chất của mỗi người. “Cái Tôi” chia sẻ đặc tính này với “cái Này” và “cái Kia”, vì sự sử dụng “cái Này”, “cái Kia” cũng thoát ly khỏi mọi đặc tính nhất định của những đối tượng người hoặc không phải người đang bàn (HTHTT, I, “Ý THỨC”). Tuy nhiên, ta không thể áp dụng những từ ấy vào cho những đối tượng không phải người, và ta không thể, chẳng hạn, quan niệm chúng duy trì sự đồng nhất của mình qua những thay đổi sâu sắc về chất, trong khi ta vẫn có thể quy sự thống nhất ấy, dù trong trí tưởng tượng, cho chính mình và cho những con người khác.

(3) Cái Tôi là phổ biến theo nghĩa riêng biệt, nhưng có quan hệ với nghĩa trên, nghĩa là cái Tôi-ý thức và sự sử dụng chữ “Tôi” không thể “nhặt ra” một cá nhân đặc thù trong số những người khác, trừ phi ở trong TƯ KIẾN (Meinung) của sự xác tín cảm tính: vì ai ai cũng đều là một “cái Tôi” hay là “cá nhân đặc thù này”. Đây cũng là đặc tính mà cái Tôi chia sẻ chung với “cái Này”. Tính phổ biến của “cái Này” rất có ý nghĩa với Hegel: nó cho phép ông phản bác KINH NGHIỆM thô của sự XÁC TÍN CẢM TÍNH và phản bác việc người ta thách thức ông diễn dịch ra sự hiện hữu của những đối tượng cá biệt (HTHTT, I, và TCPP) [nhắc đến thách thức của Krug. Xem mục từ: “Tập san Phê phán Triết học”. N.DJ. Tuy nhiên, tính phổ biến của “cái Tôi” còn một ý nghĩa phụ trội: Tôi chia sẻ điểm cốt lõi của TƯ DUY thuần lý với mọi người khác, và khi tôi tập trung đơn độc vào điều này thôi, tức trừu xuất khỏi mọi đặc điểm cá nhân về tinh thần và thể chất, tôi đánh mất mọi nghĩa về bản thân mình như một cá nhân đặc thù và, nhất là trong khi tiến hành lô-gíc học, tôi trở nên hoàn toàn bị hấp thu vào “Sự VIỆC” của tôi. [Xem mục từ: Sự vật và Sự việc. N.D].

(4) Nhưng không ai có thể chỉ là một cái Tôi-tự ý thức: cái Tôi-ý thức nằm trong một cơ thể thuộc loại xác định nào đó. Nó cũng làm cho có ý thức về thế giới tách biệt với chính nó, và bị ý thức ấy buộc phải làm như vậy, tức tách biệt với một thế giới mà cái Tôi, khi đi cùng với những cái Tôi khác, phải vượt bỏ rồi quay trở lại với chính mình xét như là Tinh thần. Cái Tôi, vì thế, là một cái phổ biến tích cực, đang hoạt động, mà về bản chất, chứa đựng cả TÍNH ĐẶC THỪ và TÍNH CÁ BIỆT, do đó, là một cái phổ biến CỤ THẾ (theo một trong nhiều nghĩa của cụm từ này).

Vì cái Tôi là hoàn toàn phổ biến và tuy vẫn cần có một cái khác để nó vượt bỏ, rồi từ sự vượt bỏ ấy quay trở về với chính mình, nên Hegel đồng hóa cái Tôi với KHÁI NIỆM, vốn cũng là cái hoàn toàn phổ biến và phải phát triển thành tính đặc thù và tính cá biệt. Dù vậy, sự đồng hóa này không những phụ thuộc vào việc Hegel tin rằng cái Tôi là minh họa tốt nhất cho khái niệm (chẳng hạn, minh họa tốt hơn so với minh họa về hạt mầm của một cái cây), mà còn phụ thuộc vào việc ông tin rằng cái Tôi, về căn bản, là đồng nhất với những tư tưởng hay khái niệm phổ biến mà nó sử dụng: tôi không thể gián cách hoàn toàn bản thân tôi khỏi tư tưởng của tôi, giống như tôi có thể gián cách mình với những ham muốn và tri giác của mình - chẳng hạn bằng cách giả định rằng chúng có thể là hoàn toàn khác với những gì chúng ta đang tồn tại hoặc bằng cách xem chúng như những lực xa lạ đang giam cầm tôi trong sức mạnh của chúng - vì bản thân cái Tôi-ý thức, và hành vi gián cách bản thân mình với những gì được xem là Không-Tôi, chứa đựng tư tưởng về cái Tôi và những tư tưởng khác, như tư tưởng về sự khác biệt. Vì thế, sự phát triển của cái Tôi đi từ ý thức đến tự-ý thức trọn vẹn cung cấp cho Hegel một mô hình cho cấu trúc của thế giới được ông mô tả trong HỆ THỐNG của mình: khái niệm hay ý niệm lô-gíc được đặt đối lập với tự nhiên, tức với cái ở cấp độ thấp hon vốn tương đối xa lạ với tư tưởng, nhưng tăng tiến lên qua nhiều cấp độ để đạt đến cấp độ tinh thần của con người, tức cấp độ dần dần lĩnh hội tự nhiên và cuối cùng, trong triết học, đạt đến một sự ý thức về khái niệm hay về ý niệm lô-gíc. Hegel có xu hướng đánh đồng cái Tôi vũ trụ này và sự phát triển của nó với THƯỢNG ĐẾ.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển triết học Kant

Cái Tôi [Đức: Ich; Anh: I]

Xem thêm: Trừu tượng, Thông giác, Ý thức, “Tôi tư duy”, Đồng nhất, Võng luận, Tâm lý học, Tự-Ý thức, Chủ thể,

Kant phân biệt hai nghĩa của “cái Tôi”, cho dù ông đã biến đổi các thuật ngữ trong đó ông tạo ra sự phân biệt, tùy lúc quy chiếu đến cái Tôi “thường nghiệm” và cái Tôi “siêu nghiệm”, cái Tôi “tâm lý học” và cái Tôi “logic học”, và sau cùng, “cái Tôi như đối tượng” và “cái Tôi như chủ thê”. Sự phân nhánh cái Tôi nảy sinh từ bản tính của Tôi-Ý thức: “việc cái Tôi ý thức về chính mình là một tư tưởng đã bao hàm một cái Tôi hai lớp” (TBSHH, tr. 270, tr. 73) - nó đòi hỏi rằng cái Tôi được suy tưởng vừa như một đối tượng của trực quan vừa như cái suy tưởng (xem thêm PPLTTT B 155). Cái Tôi thứ nhất là “cái Tôi tâm lý học” làm cơ sở cho “mọi tri giác và mối quan hệ của chúng, mà sự lĩnh hội (apprehensio) chúng là cách thức chủ thể bị kích động” (TBSHH, tr. 270, tr. 73). Cái Tôi này có thể được xem xét như một đối tượng của trực quan, và các công việc của nó được mô tả bằng những quan sát tâm lý học hoặc nhân học (xem NH §1).

Cái Tôi thứ hai thì khó mô tả hơn vì nó không phải là một đối tượng của trực quan. Kant lặp đi lặp lại lời cảnh báo chống lại việc biến cái Tôi siêu nghiệm với tư cách là một chủ thể logic của nhận thức, tức cái Tôi của [biểu tượng] “Tổ/ tư duy” hay “cái còn lại sau khi mọi tùy thể (tức các thuộc tính) bị lược bỏ” (SL §46), thành một bản thể. Cái Tôi này không thể là một “chủ thể tuyệt đỗi” hay thậm chí cũng không thể là một khái niệm mà “chỉ là sự quy chiếu các hiện tượng bên trong đến chủ thể vô danh của chúng” (SL §46). Việc biến cái Tôi này thành một bản thể có năng lực hành động như một “nền tảng của tư tưởng” là rơi vào một võng luận (paralogism) và là việc áp dụng các phạm trù bản thể và nguyên nhân chỉ có thể áp dụng thích hợp vào các hiện tượng cho một cái gì đó vốn không phải là một hiện tượng. Tuy nhiên, dù chỉ có thể nói rất ít về cái Tôi siêu nghiệm của “cái Tôi tư duy”, nhưng nó vẫn là tâm điểm trong nghiên cứu của Kant về kinh nghiệm. Nó đóng vai trò như “một điêu kiện luôn đi kèm theo toàn bộ tư tưởng”, chứ không như một đối tượng của một kinh nghiệm khả hữu, mà chỉ như “điều kiện hình thức, tức là sự thống nhất logic của bất kỳ ý tưởng nào khi cái Tôi trừu tượng hóa khỏi mọi đối tượng” (PPLTTT, A 398).

Kant mô tả cái Tôi siêu nghiệm như một “tiền tố đơn thuần để chỉ một vật có ý nghĩa bất định” (SHHT, tr. 543, 103) và như một “biểu tượng “cái Tôi” đơn thuần và tự nó hoàn toàn trống rỗng, không có nội dung nào, do đó cũng không thể gọi biểu tượng ấy là một khái niệm mà chỉ là một ý thức đơn thuần đi kèm theo mọi khái niệm” (PPLTTT A 436/ B 404). Nó không gì khác hơn là điểm cuối cùng có tính logic của một tiến trình trừu tượng hóa khỏi các vị từ của nhận thức để đạt đến một chủ thể tối hậu được định đề hóa làm cơ sở cho chúng và không thể chi tiết hóa được nữa. Kant sẵn sàng đặc trưng nó bằng sự loại suy: trong một trường hợp, ông khẳng định điều đó rằng “qua cái Tôi, hay Anh/Chị ta hay Nó (sự vật) đang tư duy thì đều không có gì được hình dung ngoài một chủ thể siêu nghiệm của những tư tưởng = X” (PPLTTT A 346/ B 404), nhưng trong trường hợp khác, ông mô tả nó như “cái đối ứng phổ quát của thông giác, và bản thân chỉ là một tư tưởng đơn thuần” (SHHT, tr. 542, 103). Ông nhấn mạnh rằng cái Tôi là một “biểu đạt hoàn toàn trống rỗng” không biểu thị cái gì khác hơn “tư tưởng về một sự thống nhất tuyệt đối nhưng chỉ là sự thống nhất logic của chủ thể mà thôi” (PPLTTT A 356); bản thân nó không tồn tại như một bản thể hay nền tảng tối hậu làm cơ sở cho nhận thức và kinh nghiệm, mà chỉ đơn thuần là một chức năng logic tất yếu đi kèm theo nó.

Thay vì biến cái Tôi thành chủ thể chân chính của tư tưởng và hành động, Kant còn cho rằng ta có thể sẽ không bao giờ biết được đặc tính của nó ngoại trừ bằng sự loại suy. Ông mô tả mối quan hệ giữa cái Tôi thường nghiệm của con người cá nhân và cái Tôi siêu nghiệm vừa như chủ thể của nhận thức vừa như cái gì đó cực kỳ khó chỉ ra, nếu không nói là không thể nào chỉ ra được. Những nhà kế tục trực tiếp Kant thì lại ít ngại ngần hơn khi biến cái Tôi thành chủ thể siêu nghiệm mà vể nguyên tắc ta có thể biết được đặc tính và những hoạt động của nó. Những nhà duy tâm siêu nghiệm, trên hết là Fichte (1794) và Schelling (1800), đã biến cái Tôi siêu nghiệm thành một nền tảng mang tính bản thể cho mọi nhận thức và hành động. Hegel (1807) đã phê phán Kant vì đã đặt ra một sự phân biệt hình thức giữa cái Tôi và Tự-Ý thức, phê phán Fichte và Schelling vì đã hòa tan mọi sự phân biệt trong cái Tôi siêu nghiệm. Thay vào đó, bằng một hiện tượng học, Hegel đã lần theo những hình thái cụ thể có tính lịch sử được giả định bởi những sự phân mảnh của cái Tôi, được suy tưởng vừa như chủ thể vừa như bản thể. Sau đó, “các nhà Hegel trẻ” như Feuerbach (1830) và Marx (1843) đã tìm cách hợp nhất cái Tôi siêu nghiệm và cái Tôi thường nghiệm vào trong một chủ thể người, một sự phát triển vẫn còn ảnh hưởng và sức thuyết phục to lớn cho đến tận những nhà hiện sinh chủ nghĩa sau Thế chiến II như Sartre (1960). Tuy nhiên, gần đây, sự đồng nhất hóa chủ thể thường nghiệm và chủ thể siêu nghiệm trong chủ thể người đã bị nhiều nghiên cứu đặt thành vấn đề, trên hết là Nietzsche (1886) và Freud (1915). Những nghiên cứu này đã, một lần nữa, tách cái Tôi siêu nghiệm (hay “cái Vô thức”) khỏi cái Tôi thường nghiệm, và kháng cự lại sự cám dỗ muốn quy một chủ thể tối hậu - chủ thể người hoặc chủ thể gì khác - cho tư tưởng và hành động.

Hoàng Phú Phương dịch

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

zu /meiiĩer>)Zeit/

tôi;

mein /(dichter, veraltet)/

tôi (meiner);

xin đừng quên tôi! : vergiss mein nicht!

unsereiner /(Indefinitpron.) (ugs.)/

tôi (diễn giả tự chỉ mình);

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Stählung /f =, -en/

sự] tôi (thép).

abharten /vt/

tôi; (về tổ chức) củng cố, kiện toàn;

Härten /n -s (kĩ thuật)/

sự] tôi, ủ (nhiệt luyện).

Ich /n = u -s, = u -s/

cái Tôi, bản ngã; mein ganzes Ich toàn bộ bản chất của tôi; das bessere - cái bản ngã tót nhất của tôi, lí tưỏng của tôi; das liebe Ich (mĩa mai) bản ngã, tự mình; sein Ich nie vergessen không bao giô quên quyền lợi của mình.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

kühlen /vt/CƠ/

[EN] chill

[VI] tôi

gehärtet /adj/L_KIM/

[EN] hardened (đã)

[VI] tôi

abschrecken /vt/L_KIM/

[EN] quench

[VI] tôi

löschen /vt/XD/

[EN] quench

[VI] tôi (vôi)

löschen /vt/CNSX/

[EN] slake

[VI] tôi (vôi)

flachspritzen /vt/CNSX/

[EN] quench

[VI] tôi (chất dẻo)

ausglühen /vt/V_LÝ, NH_ĐỘNG/

[EN] anneal

[VI] tôi, ram (thép)

aushärten /vt/L_KIM/

[EN] temper

[VI] tôi, ram

anlassen /vt/CNSX/

[EN] temper

[VI] tôi, ram

anlassen /vt/L_KIM/

[EN] temper

[VI] ram, tôi

Abschreck- /pref/L_KIM/

[EN] quench, quenching

[VI] (thuộc) tôi, dập tắt

abschrecken /vt/CƠ/

[EN] chill, quench

[VI] tôi, dập tắt

abschrecken /vt/NH_ĐỘNG/

[EN] chill, quench

[VI] làm nguội, tôi (thép)

ausheilen /vt/CƠ, V_LÝ/

[EN] anneal

[VI] ủ, tôi, ram

abkühlen /vt/CƠ/

[EN] chill, quench

[VI] làm nguội, tôi

ablôschen /vt/HOÁ/

[EN] slake

[VI] dập tắt, tôi (vôi)

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

Cái Tôi

[VI] Cái Tôi

[DE] Das Ich

[EN] The Ego

Từ điển ô tô Anh-Việt

anneal v.

Tôi (thép)

harden v.

Tôi (thép)

Từ Điển Tâm Lý

TÔI

[VI] TÔI (theo phân tâm học)

[FR] Moi, Ego

[EN]

[VI] Một trong ba ngôi của nhân cách: cái Ấy, cái Tôi, cái Siêu tôi. Xuất phát từ sự đụng chạm của cái Ấy, tức các xung lực bản năng với thực tế, qua sự thỏa hiệp giữa một bên là đòi hỏi của cái Ấy, một bên là đòi hỏi của cái Siêu tôi, tức ràng buộc của thực tế; thêm vàolà sự tự đồng nhất của chủ thể với những đối tượng, đặc biệt những nhân vật quan trọng như bố mẹ. Dồn nén và những cơ chế tự vệ, thăng hoa (x. các từ này) tạo ra cái Tôi, một phần là hữu thức, một phần vô thức. Cái Tôi hoạt động theo kiểu cảm xúc và tư duy thứ cấp (secondaire), tức theo nguyên tắc thực tế, với sự việc xảy ra trong không gian và thời gian.

TÔI,TA,MÌNH

[VI] TÔI, TA, MÌNH

[FR]

[EN]

[VI] Tôi: ít dùng trong cuộc sống hàng ngày, thường dùng trong các đơn từ: tôi, tên là…địa chỉ…làm nghề…để chỉ vị trí xã hội của bản thân. Ta: khi nói ta đây là đối lập bản thân với sự vật hoặc người khác. Mình: khi tự xét bản thân, một mình mình biết, một mình mình hay, hoặc giật mình mình lại thương mình xót xa. Số nhiều thì nói chúng tôi, chúng ta, chúng mình. Hán – Nôm thì có Ngã tương đương với tôi-ta, và Kỷ tuơng đương với mình. Tiếng Pháp có: Je, Moi, Soi, la tinh có Ego, không hoàn toàn trùng hợp với Tôi, Ta, Mình. Trẻ em lúc đầu không phân biệt được giữa bản thân và sự vật, bản thân và người khác; dần dần mới nhận ra bản thân cùng một lúc khi nhận ra có những vật thể và người khác. Nhận thức này bắt đầu vào cuối năm đầu, nhưng đến 5-6 tuổi mới nhận ra mình với mình. Bắt đầu tự khẳng định bản ngã vào năm thứ hai bằng cách đối lập với người khác. Trẻ em trước 3 tuổi thường tự gọi bằng tên của mình, nói theo người lớn; như hỏi: cái này của ai, trả lời: của Mai, sau 3 tuổi, mới biết nói: cái này của con hay cháu, lúc này mới tách được bản thân với người khác. Khi đã hoàn chỉnh cả ba ngôi: Ta, Tôi, Mình là đã hoàn chỉnh nhân cách riêng.

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

 chilling

tôi

 anneal, harden, temper

tôi (thép)

 slake /xây dựng/

tôi (vôi)

Từ điển Nguyễn văn Tuế -- Việt-Đức

tôi

1) ich; của tôi mein;

2) Untertan in; Diener m;

3) (kỹ) härten vi, stählen vt; tôi thép Stahl härten;

4) löschen

tôi con

Untertan m; Gesinde n, Dienerschaft f.

Tự điển Cơ Khí Anh Việt

Harden

tôi

Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

obscure

tôi