TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

appearance

dạng

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Tự điển Dầu Khí

sự xuất hiện

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
Tự điển Dầu Khí

hình

 
Tự điển Dầu Khí
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

bề ngoài

 
Tự điển Dầu Khí
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Xuất hiện

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Thuật ngữ-KFZ-Đức Anh Việt (nnt)

lớp hoàn thiện bề mặt

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

hiện tượng

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Lóe sáng

 
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

sự hiện ra

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

sự ló ra

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

vẻ bề ngoài

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

sự trình diện.

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

sự hiện ra sự ló ra

 
Tự điển Dầu Khí

thể diện

 
Tự điển Dầu Khí

sự xuất bản

 
Tự điển Dầu Khí

diện mạo

 
Tự điển Dầu Khí

dáng điệu

 
Tự điển Dầu Khí

tướng mạo

 
Tự điển Dầu Khí

phong thái

 
Tự điển Dầu Khí

đặc điểm

 
Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt

trình bày

 
Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt

ánh ~ of fracture đặc điểm vết vỡ map ~ sự trình bày bản đồ milky ~ ánh sữa

 
Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt

ánh opan

 
Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt

hình dạng bên ngoài

 
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

Sự thể hiện/xuất hiện

 
Từ điển nông lâm Anh-Việt

hình dáng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

dáng dấp

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Hiện tượng

 
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

ngoại quan

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

trạng thái bên ngoài

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

gia công tinh bề mặt

 
Từ điển luyện kim - Anh - Việt

Sự hiện ra.

 
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

dáng vẻ

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

dáng ngoài

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

dạng nhìn thấy

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

sự gia công tinh bề mặt

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

vẻ ngoài/ảo tưựng/ánh tượng và ánh hiện

 
Từ điển triết học HEGEL

vẻ ngoài

 
Từ điển triết học HEGEL

ảo tưựng

 
Từ điển triết học HEGEL

ánh tượng và ánh hiện

 
Từ điển triết học HEGEL

tướng

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Anh

appearance

appearance

 
Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt
Từ điển Hàng Hải Anh-Việt
Từ điển Polymer Anh-Đức
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
Tự điển Dầu Khí
Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt
Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển nông lâm Anh-Việt
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển pháp luật Anh-Việt
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển luyện kim - Anh - Việt
Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Thuật ngữ-KFZ-Đức Anh Việt (nnt)
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

image

 
Thuật ngữ-KFZ-Đức Anh Việt (nnt)

visual appearance

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

surface finish

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

illusion and shining

 
Từ điển triết học HEGEL

form

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

shape

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

mark

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

aspect

 
Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

Đức

appearance

Erscheinung

 
Từ điển Polymer Anh-Đức
Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

Aussehen

 
Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Auftritt

 
Từ điển Polymer Anh-Đức

Erscheinungsbild

 
Từ điển Polymer Anh-Đức

Erscheinungsform

 
Từ điển Polymer Anh-Đức

Aufgang

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Auftreten

 
Thuật ngữ-KFZ-Đức Anh Việt (nnt)

Oberflächenbeschaffenheit

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

schein und scheinen

 
Từ điển triết học HEGEL

Pháp

appearance

lever

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Truyện Những giấc mơ của Einstein (Anh-Việt)

From a description of the location and appearance of rivers, trees, buildings, people, all would seem common.

Nhìn bề ngoài nơi chốn và dáng vẻ của những dòng sông, cây cối, dinh thự, con người, tất cả dường như bình thường.

Từ điển Phật Giáo Việt-Anh

hình

form, shape, appearance

tướng

mark, appearance, aspect

Từ điển triết học HEGEL

Hiện tượng, Vẻ ngoài/Ảo tưựng/Ánh tượng và Ánh hiện [Đức: Erscheinung, Schein und Scheinen; Anh: appearance, illusion and shining]

Tiếng Đức có hai từ cho “appearance” trong tiếng Anh: Schein, với động từ scheinen, và Erscheinung, với động từ erscheinen.

(1) Scheinen có hai nghĩa khác nhau: (a) “chiếu sáng, ánh hiện”; (b) “hiện ra, có vẻ như”. Tương ứng với động từ ấy là danh từ Schein có nghĩa: (a) “ánh sáng, ánh tượng”; (b) “vẻ ngoài, ảo tượng, ảo tưởng”.

(2) Erscheinen và Erscheinung cũng có nghĩa là “xuất hiện ra” và “hiện tượng”, nhưng, khác với Schein và scheinen, hai từ này cũng được sử dụng để nói về sự xuất hiện ra, chẳng hạn, việc công bố một quyển sách, hay việc việc làm cho xuất hiện ra, nhưng không có ngụ ý rằng sự vật là khác với những gì nó xuất hiện.

Trong triết học thế kỷ XVIII, Schein có xu hướng được đánh đồng với Täuschung (“ảo tưởng, sự lừa dối”) hoặc với Erscheinung. Nhưng Kant rút ra một sự phân biệt nghiêm ngặt giữa hai nghĩa này: Erscheinung là một “hiện tượng” (Anh: phenomenon) khả giác, là cái ta tri giác được về một đối tượng tương ứng với các mô thức của cảm năng và giác tính của ta, tương phản với “Noumenon”, tức thực tại siêu cảm tính hay đối tượng tồn tại tự thân. (Khác với Fichte xem các hiện tượng là sản phẩm của hoạt động của cái Tôi, Kant cho rằng một hiện tượng bao hàm cái gì đó xuất hiện ra và bản thân cái sau này lại không phải là một hiện tượng). Trong khi đó, ngược lại, Schein, theo Kant là ảo tượng nảy sinh từ phán đoán sai lầm về hiện tượng hoặc về những đối tượng siêu cảm tính. Schein cũng được dùng trong mỹ học: cả Herder, trong “Plastik”/“Nghệ thuật tạo hình” của ông, cũng như Kant, trong PPNLPĐ, đều phân biệt hội họa như là nghệ thuật về cái Schein cảm tính so với điêu khắc và kiến trúc như là nghệ thuật về sự thật cảm tính, bởi hội họa chỉ mang lại ảo tượng (illusion) về tính ba chiều của không gian. Nhưng Schiller lại xem Schein (theo nghĩa là “vẻ ngoài” thẩm mỹ, chứ không phải “ảo tượng” hay lừa dối) như một đặc điểm của tất cả mọi nghệ thuật (tương phản với thực tại), và cũng là đặc điểm của bất kỳ đối tượng nào được nhìn dưới giác độ thẩm mỹ.

Hegel bác bỏ sự phân biệt của Kant giữa Schein và Erscheinung, giống như ông cũng bác bỏ vật-tự thân bất khả tri và bác bỏ thuyết DUY TÂM “chủ quan” của Kant và Fichte (“chủ quan” theo quan niệm của Hegel), vốn là cơ sở cho sự phân biệt nói trên. (Hegel tin rằng “hiện tượng” như Kant quan niệm là Schein hơn là Erscheinung). Nhưng Hegel vẫn phân biệt giữa hai từ này. Theo Hegel, Schein là đối ứng với Wesen (“bản chất”/ Anh: “essence”): BẢN CHÂT xuất hiện hay ánh hiện (scheint), nhưng bản thân nó lại ẩn đàng sau tấm màng của Schein. Trong trường hợp đó, Sein (“TỒN TẠI”, tức những gì ta trực tiếp làm quen) là Schein, vừa theo nghĩa rằng nó phụ thuộc vào một cái gì khác, tức vào bản chất, đồng thời theo nghĩa rằng nó không biểu lộ trọn vẹn bản chất ấy. (Sein và Schein gần giống nhau về ngữ âm, nhưng xa nhau về mặt từ nguyên). Nhưng Schein và scheinen, với Hegel, vẫn còn có nghĩa thứ hai là “chiếu sáng” hay “ánh hiện”. (Hai từ này gắn liền với từ PHẢN TƯ (Reflexion) cũng hàm hồ không kém). Vì thế Hegel nói về bản chất như là sự “ánh hiện” hay “chiếu sáng” ở bên trong hay vào trong chính mình, như thể bản thân bản chất và sự khác biệt của nó với Schein được tạo nên bởi một tiến trình tương tự với tiến trình nhờ đó nó “ánh hiện” hay “chiếu sáng” bản thân ra bên ngoài: chỉ bằng cách phóng chiếu một ánh tượng (ánh hiện ra bên ngoài) - chẳng hạn những bong bóng sủi bọt nơi một chất lỏng được đun sôi - và rồi thu hồi ánh tượng này (ánh hiện vào bên trong), mà bản chất cấu tạo nên chính mình như là bản chất. Hegel cũng sử dụng quan niệm về cái Schein nhân đôi này trong sự liên kết với những cặp hạn từ đối ứng khác: chẳng hạn, trong chừng mực cái phổ biến ánh hiện vào trong chính mình, nó mới đích thực mang tính phổ biến hay tính loài (ví dụ: “màu sắc” trong quan hệ với “màu đỏ”, V.V.), trong khi đó, trong chừng mực nó ánh hiện ra bên ngoài, nó trở thành riêng biệt hay đặc thù tương phản với “cái khác” mà nó ánh hiện vào (ví dụ: “màu sắc” trong quan hệ với “hình thê” hay “âm thanh”). (Ở đây Schein có thể hoán đổi với Reflexion). Trong mỹ học, Hegel, giống như Schiller, tin rằng nghệ thuật làm việc với Schein: ông phân biệt Schein với Täuschung (ảo tượng, lừa dối), và liên kết nó với từ gần đồng âm và gần gũi về từ nguyên: schön (“đẹp”).

Trong cách dùng từ của Hegel, Erscheinung và erscheinen khác với Schein và scheinen ở một số phương diện sau đây:

(1) Erscheinung cũng là sự xuất hiện ra của một bản chất, nhưng bản chất hoàn toàn bộc lộ chính mình trong Erscheinung và không ẩn giấu điều gì cả. (Sức mạnh nguyên thủy của tiền tố er- có nghĩa là “từ bên trong”, dẫn đến ý tưởng về “sự quá độ”, và vì thế dẫn đến ý tưởng về “sự đạt được hay đạt tới”).

(2) Giống như Schein, Erscheinung là phù du và phụ thuộc, nhưng cái mà nó phụ thuộc vào thì, ít ra một cách trực tiếp, không phải là một bản chất, mà là cái Erscheinung khác. Vì thế, tương phản với Schein, Erscheinung là một cái TOÀN BỘ, đa dạng, liên lập (phụ thuộc lẫn nhau) và biến dịch, hay còn gọi là: thế giới.

(3) Erscheinung không chủ yếu tương phản với “bản chất”, mà với “KHÁI NIỆM” hay “HIỆN THựC” (là cái hiện thực hóa trọn vẹn khái niệm), và do đó là bất tất và mong manh hơn là tất yếu, hợp lý tính và ổn định: chẳng hạn, tâm lý học thường nghiệm chỉ xem xét Erscheinung của TINH THẨN (con người), còn tâm lý học thuần lý hay có tính siêu hình học thì chỉ xem xét khái niệm về tinh thần (con người), trong khi đó, Hegel tin rằng cách tiếp cận đúng đắn là phải xem khái niệm về tinh thần ấy hiện thực hóa chính mình như thế nào trong Erscheinung. Ví dụ khác: trong khi một tội ác chỉ đon thuần là Schein, bởi nó xung đột với PHÁP QUYỂN, và pháp quyền khôi phục chính mình bằng sự PHỦ ĐỊNH (tức TRỪNG PHẠT) cái Schein này. Trong khi đó, một hợp đồng đặc thù là Erscheinung vì nó không xung đột với pháp quyền mà chỉ là một sự biểu lộ bất tất của pháp quyền (THPQ, §82). (Erscheinung - và Schein - thường thay đổi cách sử dụng, tùy theo văn cảnh, khi Hegel xem xét khái niệm hay cấu trúc hợp lý tính mà nó tưong phản).

Trong HTHTT và KHLG, thế giới hiện tượng (Erscheinung) sản sinh ra một thế giới khác có tính bản chất hay Tự MÌNH và là sự đảo ngược (Verkehrung/Anh: the reverse) của thế giới hiện tượng. Sự tư ổng tác giữa các hiện tượng được chi phối bởi những QUY LUẬT (Gesetze), được Hegel liên hệ với ý tưởng rằng bất kỳ hiện tượng nào cũng được THIẾT ĐỊNH (gesetzt), hay được tạo ra bởi hiện tượng khác. Những quy luật giải thích những sự thay đổi trong lĩnh vực hiện tượng. Nhưng vì lẽ những thay đổi này là những sự đảo ngược (nóng trở thành lạnh V.V.), những quy luật phải cho thấy rằng những gì trong thế giới hiện tượng, chẳng hạn, là nóng, thì vẽ bản chất, hay tự mình, là lạnh và v.v. Điều này gợi nên ý tưởng về một thế giới vốn là sự đảo ngược của thế giới hiện tượng, trong đó tất cả những gì, có một chất nào đó, trong thế giới của ta, thì, trong thế giới tự mình có một chất đối lập.

Ý nghĩa của thế giới bị đảo ngược này là không rõ ràng. Phải chăng Hegel đòi hỏi rằng hai thế giới như thế phải là bất khả phân biệt? Một số ví dụ của ông (chẳng hạn các cực đối lập của nam châm, điện dưong và điện âm) quả là bất khả phân biệt, trong khi các ví dụ khác (chẳng hạn, đen và trắng) thì không phải như thế. Phải chăng ta phải suy tưởng về chủ thể-người như là công dân của một trong hai thế giới ấy và chịu một sự đảo ngược tưong ứng, hay đúng hon, vượt bỏ cả hai thế giới và hợp nhất chúng lại với nhau trong tư tưởng (ngụ ý rằng con người ít ra không phải là Erscheinung đơn thuần)? Nhưng có một số điều là khá sáng tỏ. Thứ nhất, ý tưởng này đến từ nhiều nguồn và nhiều ý nghĩa đối với Hegel: giống như Schelling, ông bị thu hút bởi tính phân cực của nam châm và điện; nhưng ý tưởng này cũng còn có ý nghĩa đạo đức và tôn giáo, chẳng hạn, trong sự đảo ngược của cái thiện và cái ác. (Xem: HTHTTVỈ. B về sự tha hóa). Thứ hai, những sự đảo ngược tương tự cũng diễn ra trong suốt các tác phẩm của ông, chẳng hạn, thế giới xã hội bị tha hóa sau sự sụp đổ của Đế quốc Ta Mã sản sinh ra một thế giới cũng đảo ngược tương tự, đó là thế giới của ĐỨC TIN. Thứ ba, cho dù ông rất quan tâm đến thế giới đảo ngược, và tin rằng thế giới của ta là thế giới hiện tượng, Hegel từ khước lòng tin vào hay sự khao khát về một thế giới “ở bên kia” (Jenseits/ Anh: “beyond”' ) vốn là niềm tin chung của các tác giả đương thời (Kant, Herder, Schelling, V.V.). Bản chất hay cấu trúc lô-gíc (mà Hegel không ngần ngại gọi là “THƯỢNG ĐỂ”) của thế giới hiện tượng biểu lộ hoàn toàn trong sự tương tác của nó và trong những sự đảo ngược. (Một số học giả, chẳng hạn, Shklar, trong Freedom and Independence (1976), liên hệ thế giới đảo ngược với thế giới của những MÔ THỨC của Plato. Nhưng những mô thức của Plato là một sự ý thể hóa/lý tưởng hóa, chứ không phải một sự đảo ngược của thế giới hiện tượng).

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Aussehen /nt/KTV_LIỆU/

[EN] appearance, visual appearance

[VI] dáng vẻ, dáng ngoài, dạng nhìn thấy

Oberflächenbeschaffenheit /f/GIẤY/

[EN] appearance, surface finish

[VI] lớp hoàn thiện bề mặt; sự gia công tinh bề mặt

Thuật ngữ-KFZ-Đức Anh Việt (nnt)

Auftreten

[EN] image, appearance

[VI] Xuất hiện

Từ điển triết học Kant

Hiện tượng [Đức: Erscheinung; Anh: appearance]

Xem thêm: Hiện thực, Kinh nghiệm, Mô thức, Ý thể, Ảo tượng, Chất liệu, Noumenon, Phenomenon, Cảm năng, Chân lý,

Trong PPLTTT và SL, Kant cải tiến nghiên cứu của triết học truyền thống về hiện tượng bằng cách phân biệt giữa hiện tượng (Erscheinung/ apperance), Phenomenon và ảo tượng (Schein/illusion). Ông một mực nhấn mạnh đến những sự phân biệt này nhằm cứu hiện tượng khỏi sự khinh thị mà nó đã phải hứng chịu dưới uy quyền của truyền thống triết học: nó không đơn giản chỉ là ảo tượng - tức vẻ bề ngoài lừa dối của tri giác cảm tính - mà đúng hơn còn là kinh nghiệm trong những ranh giới của các trực quan của con người về không gian và thời gian. Tuy nhiên, Kant vẫn bảo tồn một phiên bản sáng giá về sự phân biệt đã có từ thời cổ đại giữa hiện tượng và chân lý - giữa những phenomenon và những noumenon - cùng với những cái đối ứng như cái biến dịch và cái tồn tại, cái cảm tính và cái ý thể, chất liệu và mô thức. Vì sự thỏa hiệp này mà về sau Kant đã bị phê phán, kịch liệt nhất bởi Nietzsche, do việc Kant đã không nhất quán và đã rút lui khỏi các thức nhận của ông về tính không thể tránh khỏi của những hiện tượng.

Trong LA (1770), Kant vẫn còn làm việc bên trong sự đối lập truyền thống giữa hiện tượng và thực tại. Hiện tượng là một đối tượng của nhận thức cảm tính và được đối lập với nhận thức lý tính hay trí tuệ. Kant bình luận một cách trung lập rằng các đối tượng của mỗi lĩnh vực nhận thức, “trong các trường phái triết học của người xưa” (LA §3), được gọi là phenomenon và noumenon. Hon nữa, hiện tượng (ở đây không được phân biệt với các phenomenon) là đối lập rõ rệt với chân lý, và được đồng nhất hóa với chất liệu của cảm giác như đối lập lại với mô thức của trí tuệ: “các sự vật được suy tưởng một cách cảm tính là các biểu tượng về các sự vật xét như chúng hiện ra, trong khi những sự vật thuộc trí tuệ là các biểu tượng của những vật như chúng tồn tại” (LA §4). Cho dù có những phát biểu không rõ rệt như vậy, thì ngay trong văn bản này, Kant cũng đã làm lung lay tận gốc sự đối lập này, và bằng cuốn PPLTTT ông đã đi thêm được một khoảng cách đáng kể hướng tới việc bác bỏ sự đối lập đó.

Trong PPLTTT, bản thân hiện tượng được chia thành chất liệu và mô thức: chất liệu của nó là cái bên trong hiện tượng, “tương ứng với cảm giác”, trong khi mô thức của nó là cái “quy định cái đa tạp của hiện tượng để nó có thể được sắp xếp trong các quan hệ nào đó” (PPLTTT A 20/ B 34). Kant khẳng định rằng, mô thức sắp xếp cảm giác thì bản thân không thể là cảm giác, từ đó ông suy ra rằng mô thức đó là một mô thức tiên nghiệm của trực quan. Ông khám phá ra hai mô thức tiên nghiệm như thế của hiện tượng: không gian và thời gian. Ông muốn cho thấy ta không thể có nhận thức chính đáng ở bên ngoài những mô thức ấy của trực quan, và do đó chúng ta thật ra chỉ có thể biết các hiện tượng trong không gian và thời gian mà thôi. Những hiện tượng không phải là những ấn tượng cảm tính đã tiềm ẩn sẵn khả năng đánh lừa ta, trái lại có sự sắp xếp và tổ chức của riêng chúng. Tuy nhiên, tự nó sự sắp xếp này có thể được nối khớp xa hơn nữa bằng các khái niệm tiên nghiệm của giác tính hay “các phạm trù”. Những hiện tượng được “tổng hợp” như thế sẽ trở thành những phenomenon: “Những hiện tượng, trong chừng mực chúng được suy tưởng như là những đối tượng dựa theo sự thống nhất của các phạm trù, gọi là phaenomena” (PPLTTT A 249). Thế nên các phenomenon cũng là các hiện tượng nhưng đã được tổ chức trong khuôn khổ thống nhất hóa của các phạm trù.

Bước chuyển tiếp từ các hiện tượng tới các phenonmenon là nguyên do [làm xuất hiện] một số luận chứng phức tạp và rối rắm nhất trong PPLTTT. Sự phức tạp này thường là bởi việc Kant ngần ngại không muốn rơi trở lại vào trong sự đối lập truyền thống giữa chân lý và hiện tượng,

vốn vẫn còn là đặc trưng cho lập trường của ông trong quyển LA. Trong khi ta chỉ có thể có nhận thức về các hiện tượng, thì nhận thức của ta lại không chỉ duy nhất được rút ra từ các hiện tượng. Giác tính tổ chức các hiện tượng trong không gian và thời gian dựa theo các khái niệm tiên nghiệm mà nguồn gốc của các khái niệm đó tuy không nằm trong vương quốc của các hiện tượng nhưng chúng sẽ không có được ý nghĩa gì nếu chúng được áp dụng bên ngoài vương quốc kinh nghiệm đó: “Vì thế, bất cứ cái gì không phải là hiện tượng đều không thể là đối tượng của kinh nghiệm, do đó giác tính không bao giờ có thể vượt qua các giới hạn của cảm năng là nơi duy nhất những đối tượng được mang lại cho ta. Các nguyên tắc của giác tính chỉ đơn thuần là các nguyên tắc trình bày về những hiện tượng...” (PPLTTT A 246/B 303).

Như thế hiện tượng không phải là các ấn tượng cảm giác tùy tiện không thể phân biệt được với ảo tượng (Schein). Hoàn toàn ngược lại, vì ảo tượng [nảy sinh] cốt yếu ở việc xem các hiện tượng như thể chúng là những đối tượng tự thân: “Trong chừng mực tính chất này phụ thuộc vào phương cách trực quan của chủ thể trong mối quan hệ với đối tượng được cho, cho nên đối tượng này phải được phân biệt với tư cách là hiện tượng với chính bản thân nó, tức với tư cách là vật-tự thân” (PPLTTT B 69). Vì hiện tượng, Kant đã chỉ rõ trong một cước chú, là “cái gì, trong khi không thể tách rời với biểu tượng về đối tượng, không phải ở nơi đối tượng tự thân, mà bao giờ cũng nằm trong mối quan hệ của đối tượng với chủ thể” (B 70). Việc đưa ra một phán đoán mà không tự giới hạn nó vào mối quan hệ này với chủ thể sẽ làm nảy sinh ảo tượng.

Sự phân biệt của Kant giữa hiện tượng và ảo tượng trong mối quan hệ với chủ thể mang theo nó hàm ý sâu xa hơn về một mối quan hệ của đối tượng với “đối tượng tự thân”. Hàm ý này đã dẫn đến nhiều sự bất đồng ý kiến, bởi qua việc thừa nhận mối quan hệ đó Kant dường như đã khôi phục một sự phân biệt giữa hiện tượng và chân lý. Nhiều nhà phê phán, từ Nietzsche cho tới Strawson, có thể đi theo Kant tới ranh giới của cảm giác, nhưng lại nao núng trước khuynh hướng của Kant muốn vượt khỏi những ranh giới này để nói đến một đối tượng hay vật-tự thân. Thực ra thì làm thế nào mà ông có thể chấp nhận một mối quan hệ với đối tượng tự thân khi ông một mực khăng khăng cho rằng những đối tượng này là không thể nhận thức được: “Những đối tượng nào có thể được xem là những đối tượng tự thân và tách rời khỏi mọi tính thụ nhận của cảm năng chúng ta là điều hoàn toàn không thể biết được đối với ta” (PPLTTT A 42/ B 59). Nếu đối tượng đó là không được biết đến, tức không thể nhận thức được trên thực tế, thì tại sao Kant lại cứ một mực cho rằng các hiện tượng không chỉ được rút ra từ mối quan hệ giữa nó với một chủ thể, mà còn được rút ra từ mối quan hệ giữa nó với một đối tượng [tự thân] ?

Kant nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của các quan hệ đặc thù với chủ thể hoặc với đối tượng dựa theo lập trường mà ông đang phê phán. Khi phân biệt các nghiên cứu của mình về hiện tượng và về trực quan cảm tính với Leibniz và Wolff, thì ông gắng sức hạ thấp mối quan hệ của hiện tượng với đối tượng-tự thân: “Nghĩa là thông qua cảm năng, không phải là ta nhận thức một cách không minh bạch về các tính chất của những vật tự thân mà là không thể nhận thức được gì hết về chúng” (PPLTTT A 44/ B 62). Ngược lại, khi ông lập luận chống lại thuyết duy nghiệm và thuyết hoài nghi, ông cố gắng bảo vệ các hiện tượng được đặt nền tảng trong một đối tượng siêu nghiệm cho dù đối tượng này là bất khả tri: “Đối tượng siêu nghiệm làm cơ sở cho những đối tượng bên ngoài cũng như cho những gì thuộc trực quan bên trong không phải là vật chất tự-thân, cũng không phải là một hữu thể-tư duy tự thân, mà chỉ là một cơ sở không nhận thức được của những hiện tượng, và chỉ những hiện tượng này là mang lại khái niệm thường nghiệm về loại trước cũng như về loại sau” (PPLTTT A 380).

Kant dường như thừa nhận một lối tiếp cận thực nghiệm và không giáo điều đối với vấn đề về các hiện tượng. Trong khi nhấn mạnh rằng các hiện tượng không đơn thuần là ảo tưởng hay sự thật, Kant lại từ chối cam kết một nghiên cứu độc quyền hoặc mang tính chủ quan hoặc mang tính khách quan về các hiện tượng. Kant sử dụng cách hiểu của ông về hiện tượng để phê phán các quan điểm đối lập và một chiều về vấn đề mà ông thừa hưởng từ truyền thống triết học. Không may, nhiều nhà kế tục Kant đã quay lại nhấn mạnh đến tính cách độc quyền của lập trường này so với lập trường kia, thậm chí xem là lập trường “thực sự” của Kant. Do đó, Fichte nhấn mạnh đến quan hệ độc quyền của các hiện tượng với chủ thể, trong khi Schelling nhấn mạnh mối quan hệ của những hiện tượng với đối tượng: cả hai ông đều tìm kiếm từ Kant sự biện minh cho lập trường của mình. Đi theo Fichte và Schelling, Hegel (1807, 1812) chọn việc bàn thảo về sự đối lập này như một chủ đề riêng biệt và biến những mối quan hệ chủ thể và khách thể thành những mô-men của một phép biện chứng.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Từ Vựng Cơ Đốc Giáo Anh-Việt

Appearance

Sự hiện ra.

Từ điển luyện kim - Anh - Việt

appearance

ngoại quan, trạng thái bên ngoài, (sự) gia công tinh bề mặt, lớp hoàn thiện bề mặt

Thuật Ngữ Triết - Nhóm dịch triết

appearance

[VI] Hiện tượng

[DE] Erscheinung

[EN] appearance

Từ điển pháp luật Anh-Việt

appearance

(to appear) : hiện lên, hiện ra, xuất hiện; sự gia nhập, sự bắt dầu [L] a/ hầu tòa, xuất dinh b/ chứng thư hợp thức mà bị dơn xác nhận ý muốn cùa mình de chống dơn khời tố, còn gọi là dơn xin chì định luật sư bào chữa - the appearance of a right - quyền suy định - to fail to appear - làm sai - as it appears from a judgment of the court - như hien nhiên có, do án văn của tòa án [TM] hàng trình bày đẹp [BH] insurance for the benefit of all parties as their interest may appear - bào hiểm có lợi cho tất cả các bên đương sự ưong trường hợp xày ra thiệt hại.

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

appearance

Xuất hiện, hình dáng, dáng dấp, bề ngoài

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Aussehen

appearance

Từ điển nông lâm Anh-Việt

Appearance

Sự thể hiện/xuất hiện

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

appearance /SCIENCE/

[DE] Aufgang

[EN] appearance

[FR] lever

Từ điển Prodic - KHKT - Việt - Anh

appearance /cơ khí & công trình/

hình dạng bên ngoài

Từ điển Khoa học trái đất Anh-Việt

appearance

đặc điểm; trình bày; ánh ~ of fracture đặc điểm vết vỡ map ~ sự trình bày bản đồ milky ~ ánh sữa, ánh opan

Tự điển Dầu Khí

appearance

[ə'piərəns]

  • danh từ

    o   sự xuất hiện, sự hiện ra sự ló ra

    o   hình, dạng (bên ngoài)

    o   bề ngoài, thể diện

    o   sự xuất bản (sách)

    o   diện mạo, dáng điệu, tướng mạo, phong thái

  • Thuật ngữ công nghệ sinh học Đức-Anh-Việt

    Appearance

    [DE] Aussehen

    [EN] Appearance

    [VI] sự xuất hiện, sự hiện ra, sự ló ra, vẻ bề ngoài, sự trình diện.

    Từ điển Polymer Anh-Đức

    appearance

    Erscheinung; Auftritt; Erscheinungsbild, Erscheinungsform

    Từ điển Hàng Hải Anh-Việt

    Appearance

    Lóe sáng

    Từ điển cơ điện tử ứng dụng Anh-Việt

    appearance

    dạng (biếu hiện)