TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

form

khuôn

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

mẫu

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình dạng

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

khuôn mẫu

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

mô hình

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình dáng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

dạng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình thức

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

ván khuôn

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

cốp pha

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

khuôn in

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

rãnh

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

rãnh cắt

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

khuôn dập

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

khuôn rèn

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

khuôn đúc

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

dưỡng

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

hình thúc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình thù

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình dung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình trạng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dáng dấp

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dáng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

pl lịch sự

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

xã giao

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thể

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thúc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình thái

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thể thúc

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cách thức

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hàng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hàng ngũ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hàng quân

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

đội ngũ.

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

mô thức/hình thức

 
Từ điển triết học Kant

mô thức

 
Từ điển triết học Kant

hình thể

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình thức thể hiện

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

dạng thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình thức tồn tại

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hình thức biểu hiện

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cách thể hiện

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thể thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

nghi thức

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

thủ tục

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lề thói trong giao tiếp

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

tình trạng sức khỏe

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

phong độ

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

chất liệu và nội dung

 
Từ điển triết học HEGEL

Anh

form

form

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

mold

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

shape

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

mould

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

forme

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

printing form

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

chase

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

die

 
Từ điển KHCN Đức Anh Việt

totalization counter

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

former

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

format

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

matter and content

 
Từ điển triết học HEGEL

Đức

form

Form

 
Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh
Từ điển KHCN Đức Anh Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Từ điển triết học Kant
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Metzler Lexikon Philosophie
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức
Từ điển triết học HEGEL

Forma

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Schablone

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Datenformat

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Format

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

logische

 
Metzler Lexikon Philosophie

Muster

 
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

materie und inhalt

 
Từ điển triết học HEGEL

Pháp

form

forme

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

compteur totalisateur

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

moule

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

format

 
Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)
Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

Form

Dạng

Form

Hình dạng

geöffnete Form

Khuôn mở

geschlossene Form

Khuôn đóng

Form geöffnet

Khuôn mở

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

der Gegenstand hat eine schöne Form

vật này có hình dáng rất đẹp

abgeplattete Form

dạng đập dẹt

elliptische Form

dạng elip

geometrische Form

dạng hlnh học

konkave Form

dạng lõm

konvexe Form

dạng lồi

[feste] Formten] annehmen

dự án đã được phác họa, kế hoạch đã được hình thành

häss liche, scharfe o. ä. Formen annehmen

trở nên khó chịu, trở nên khó xử, phát triển theo chiều hướng xấu

aus der Formen gehen

(khẩu ngữ, đùa) phát phì, béo ra nhiều

in Formen von etwj(auch

) in Formen einer Sache: (một việc gì được thể hiện) theo hình dạng, theo cách thức, theo kiểu

in Form von Tabletten

dưới dạng thuốc viên.

etw. in eine leicht verständliche Form bringen

trình bày một vấn đề gì theo dạng dễ hiểu.

die Formen (Deklinationsformen) eines Substantivs

các dạng (biến cách) của một danh từ.

das ist alles nur Form

tất cả chỉ là nghi thức mà thôi

in aller Form

phải thực hiện đúng các qui định.

allmählich wieder in Form kommen

dần dần phục hồi lại phong độ

zu großer Form auflaufen

đạt đến phong độ cao.

verlorene Form

khuôn dùng một lần, khuôn bỏ di

Teig in eine Form füllen

đổ bột vào đầy khuôn (nướng bánh)

Metall in eine Form gießen

rót kim loại vào khuôn (đúc).

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

der Form kommen

biến dạng; 2. pl [phép] lịch sự, xã giao; 3. (văn phạm) thể, dạng, thúc, hình thái; 4. mẫu, thể thúc, cách thức, mô hình, khuôn, khuôn mẫu;

in eine Form gießen

đúc, đổ khuôn; 6. (quân sự) hàng, hàng ngũ, hàng quân, đội ngũ.

Từ điển triết học HEGEL

Hình thức, Chất liệu và Nội dung [Đức: Form, Materie und Inhalt; Anh: form, matter and content]

Tiếng Đức có hai từ để chỉ “hình thức”:

1. Chữ Gestalt [hình thái/Anh: shape] là một từ Đức bản địa, có nguồn gốc từ chữ stellen (“đặt để, gầy dựng, sắp xếp, hình thành”, V.V.), nhưng sinh ra một động từ của riêng nó, gestalten (“hình thành, định hình”), và do đó có danh từ Gestaltung chỉ tiến trình hay sản phẩm của việc tạo hình ấy. Một Gestalt không phải là một hình thái hay hình thức trừu tượng có thể được chia sẻ chung giữa một số sự vật, nhưng là hình thức hay hình thái của một cái cá biệt. Do đó nó cũng có thể quy chiếu đến bản thân cái cá biệt được hình thành hay định hình ấy Khác với chữ Form, chữ Gestalt thường không hàm ý một sự tương phản với “chất liệu” hay “nội dung”. Các đối tượng vốn có một Gestalt (chẳng hạn: cây cối, các nhạc phẩm, các nền văn hóa) được suy tưởng là các thực thể HỮU cơ, chỉ có thể được nhận thức như là cái toàn bộ, chứ không phải bằng sự xem xét từng bộ phận của chúng.

2. Chữ Form phái sinh từ chữ La-tinh thường biểu thị một hình thức TRỪU TƯỢNG được chia sẻ chung giữa một số cái cá biệt: khác với Gestalt, nó cũng có thể quy đến hình thức của một bài xô-nê (sonnet) nói chung, và, giống như Gestalt, đến hình thức của một bài xô-nê đặc thù. Do đó, nó thường tương phản với “chất liệu” hay “nội dung”. Trong mỹ học, Form của một tác phẩm nghệ thuật là VẺ NGOÀI (Schein) có thể tri giác được của nó, tương phản với nội dung bên trong của nó. (Form, nhưng không phải Gestalt, của tác phẩm ấy có thể không tương thích với nội dung của nó). Ngược lại, trong truyền thống Aristoteles, Form [hình thức/mô thức] (tiếng Hy Lạp: eidos) của một vật, khác với chất liệu thường được xem là BẢN CHÂT nội tại, sẽ quy định hình thức bên ngoài. Quan niệm về một hình thức nội tại, bản chất xuất hiện ở Herder, Goethe, và Hegel (xem KHÁI NIỆM). Tính từformal hay formell áp dụng vào bất kỳ điều gì liên quan đến hình thức và thoát ly khỏi nội dung, và Formalismus [chủ nghĩa hình thức] là một sự tập trung quá mức vào hình thức với sự xem nhẹ nội dung.

Trong Lô-gíc học của Hegel, Form tương phản với “bản chất”, nhưng tương phản chủ yếu là với “chất liệu” và “nội dung”:

1. Materie [vật chất], giống như từ “matter” trong tiếng Anh, có hai sự sử dụng chính trong triết học:

(a) Nó biểu thị chất liệu vật chất, tương phản không phải chủ yếu với “hình thức”, mà với TINH THẦN (tinh thần cá nhân hay tinh thần nói chung) và với cái Ý THỂ hay trừu tượng. Materie theo nghĩa này là tương đương với Stoff (“vật liệu, chất liệu”). Những chữ này cũng xuất hiện ở dạng số nhiều, đặc biệt khi Hegel thảo luận về lý thuyết rằng các thuộc tính của một VẬT là các chất liệu hay vật liệu (chẳng hạn, sức nóng là “chất liệu nhiệt”, nhưng các vật liệu “xốp” vốn có thể xuyên thấm vào nhau, đến mức vật ấy có thể là, chẳng hạn, vừa nóng vừa ngọt. Nhưng, ở dạng số ít, Materie có thể biểu thị chất liệu trung tính, đồng tính của cái mà, theo vật lý học Newton, mọi thứ đều chứa đựng. Hegel (giống như Berkeley) xem Materie thuộc loại này là một sự trừu tượng trống rỗng.

(b) Trong truyền thống Aristoteles, vật chất hay chất liệu của một thực thể tưong phản với hình thức của nó. Nhưng “vật chất” theo nghĩa này cũng mang tính nước đôi: nó quy đến (i) vật chất vô hình thức mà từ đó sự vật được tạo hình xuất hiện ra, chẳng hạn khối đá cẩm thạch mà từ đó pho tượng được tạo ra; và (ii) vật chất được tạo hình là đồng thời với sự vật được tạo hình ấy, chẳng hạn đá cẩm thạch được tạo hình chính là pho tượng đá. Có bốn sự phức tạp lớn hon: thứ nhất, vật chất theo nghĩa (b) thường cũng là vật chất hay chất liệu theo nghĩa (a), nhưng không nhất thiết phải thế: chất liệu của, chẳng hạn, một bức tranh có thể hoặc là các vật liệu (chẳng hạn Sổn, vải, v.v., ) được sử dụng để tạo ra nó hoặc là chủ đề hay thông điệp của bức tranh. (Hegel nói chung thường sử dụng Inhalt hon, tức là “nội dung”, để chỉ “chất liệu” theo nghĩa sau). Thứ hai, trong trường hợp của pho tượng, hình thức và chất liệu là độc lập tưong đối hay “dửng dưng” (gleichgültig) với nhau: đá cẩm thạch nói chung, hay một tảng đá cẩm thạch đã cho, có thể tạo thành những sự vật khác hon là những pho tượng, và một pho tượng của cùng hình thức có thể được tạo thành từ một vật liệu khác, chẳng hạn bằng đồng. Nhưng trong trường hợp các thực thể là sự sống hữu Cổ, chất liệu và hình thức là không dửng dưng với nhau: thịt, không giống như đá cẩm thạch, không thể có trước các thực thể được tạo ra từ nó, nó phải tạo nên động vật đặc thù chứa đựng nó; ngược lại, một động vật chỉ có thể được cấu thành từ thịt. Thứ ba, đá cẩm thạch, từ đó một pho tượng được tạo ra và rồi từ đó nó chứa đựng, hay thịt mà một động vật bao chứa, là tưong đối vô hình thức đối với pho tượng hay động vật ấy. Nhưng đến lượt mình, chúng có một hình thức khiến chúng khác biệt với, chẳng hạn, đá lửa hay máu, và chứa đựng vật chất Sổ cấp hon, mà đến lượt mình, lại có một hình thức và chứa đựng chất liệu còn đon giản hon nữa. Theo đó, có hai lựa chọn:

(i) bất kỳ vật chất nào cũng có thể phân giải thành hình thức và chất liệu, một cách vô hạn, (ii) sự quy thoái ấy kết thúc trong “vật chất Sổ nguyên”, vật chất không có hình thức, vật chất tối hậu, đơn giản mà mọi vật đều chứa đựng. Vật chất nguyên sơ này không giống vật chất cơ bản của nhà vật lý. (Ta cũng có thể lập luận rằng (iii) có vài loại vật chất tối hậu không thể được phân tích hơn nữa thành hình thức và vật chất: các nguyên tố). Sau cùng, các nhà theo phái Aristoteles tin rằng chuỗi các thực thể được cấu thành bởi những sự áp đặt thành công của các hình thức cao hơn, và kết thúc trong hình thức thuần túy, hình thức không có chất liệu, tức là Thượng Đế.

2. Có hai chữ để chỉ “nội dung”: Inhalt và Gehalt. Gehalt khác với Inhalt ở chỗ, thứ nhất, nó hàm ý rằng nội dung được thống nhất hơn Inhalt (do đó chúng ta có thể sử dụng “nội dung” (tiếng Anh: “content”) cho chữ Gehalt, “các nội dung” (tiếng Anh: “contents”) cho Inhalt), và, thứ hai, nó hàm ý mạnh mẽ hơn nhiều về giá trị của nội dung (do đó Gehalt gợi ý đến “ý nghĩa, thực chất”/Anh: “import”). Vì cả hai lý do trên, Gehalt của một điều gì đó gắn bó chặt chẽ hơn với Form của nó, và Hegel, dù ông sử dụng cả hai chữ, thường đối lập Form với Inhalt. Inhalt khác với Materie theo hai cách. Thứ nhất, Inhalt tương quan về lô-gíc với Form, và Inhalt không thể tồn tại trước vật được tạo hình. Thứ hai, Inhalt không dẫn đến gợi ý về tính chất vật lý. Vì cả hai lý do trên, nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là chủ đề của nó, chứ không phải chất liệu tạo nên nó.

Hegel sử dụng tất cả các chữ này trong trọn vẹn dãy nghĩa của chúng. Ông sử dụng Gestalt trong HTHTT cho các hình thức hay hình thái của Ý THỨC, cho các hình thức hay hình thái của các đối tượng tự nhiên chẳng hạn như các tinh thể, và nhất là cho các hình thái hay hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Form và Inhalt hay Materie trở đi trở lại xuyên suốt tác phẩm của ông. Đặc biệt ông nhấn mạnh các điểm sau:

(1) Form và Inhalt/Materie có thể biểu thị đủ loại các tương phản khác nhau: chẳng hạn, chất liệu tạo thành một cuốn sách, cụ thể là giấy và da, là Form bên ngoài của nó, tương phản với hình thức văn chương bên trong của nó, và tương phản với Inhalt của nó (theo hai nghĩa tương ứng). Dù hình thức và nội dung có “dửng dưng” với nhau như thế nào, và cái nào trong cặp ấy được xem là bản chất và “tích cực”, sẽ phụ thuộc vào việc ta nghĩ đến sự tương phản nào.

(2) Ngay cả trong trường hợp của một sự tương phản duy nhất, một trong hai thuật ngữ đang tương phản có thể được xem là Form, và cái kia được xem là Inhalt, phụ thuộc vào quan điểm của chúng ta: chẳng hạn, các TƯ TƯỞNG thuần túy liên quan, hay cấu trúc lô-gíc của một phần diễn ngôn (tương phản với nội dung thường nghiệm của nó), có thể được xem hoặc là Form của nó hoặc là Inhalt của nó (“điểm trọng yếu” của nó).

(3) Trong sinh thể hữu cơ và các tác phẩm nghệ thuật lý tưởng, Form và Inhalt gắn bó một cách không thể tách rời.

(4) Không có vật chất hay nội dung hoàn toàn vô hình thức, vì điều gì là vô hình thức liên quan đến một hình thức được “định hình” bởi hình thức khác: tảng đá cẩm thạch vô hình thức có hình thức của đá cẩm thạch.

(5) Ngược lại, không có hình thức nào là hoàn toàn vô nội dung: chẳng hạn, các hình thức lô-gíc của hai câu có thể khác nhau chỉ dựa vào một sự khác biệt trong nội dung tương ứng của chúng. Quan trọng nhất, điều gì ở tại một cấp độ là Form hay formell, một tư tưởng hay một hình thức lô-gíc, có thể là nội dung của một tư tưởng cao hơn (hay siêu-): chẳng hạn, tư tưởng về TỒN TẠI là bộ phận của hình thức của câu “Hoa hồng là đỏ”, nhưng lại là phần nội dung của câu: “Tồn tại trở thành hư vô”. Do đó tư tưởng thuần túy hay “Ý NIỆM lô-gíc”, dù theo một nghĩa hình thức thuần túy, không chỉ duy nhất mang tính hình thức, trái lại, có bản thân nó như nội dung của chính nó.

Theo Hegel, hình thức thuần túy, vô nội dung và chất liệu thuần túy, vô hình thức là một thứ như nhau: đều là một sự trừu tượng hoàn toàn vô quy định.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Lexikon khoa học tổng quát Pháp-Đức

Form,Muster

forme

Form, Muster

Metzler Lexikon Philosophie

Form,logische

In Wittgensteins Tractatus logicophilosophicus (6.1231, 5.634) wird die l. F. der Sprache thematisiert. Er geht von der Annahme aus, dass eine sprachliche Beschreibung ein Bild der Wirklichkeit ist, so dass die Wirklichkeit die l. F. der Sprache besitzt, und dass diese gemeinsame Form die l. F. der Abbildung ist. Die Bestimmung der l.n F. eines Dinges geschieht nach der Unterscheidung in: individualer Gegenstand, Eigenschaft, Beziehung (d.i. einstellige oder mehrstellige Relation).

PP

LIT:

  • M. B. Hintikka/J. Hintikka: Untersuchungen zu Wittgenstein. Frankfurt 1990. S. 112 ff.
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Form /[form], die; -, -en/

hình dạng; hình dáng; hình thể;

der Gegenstand hat eine schöne Form : vật này có hình dáng rất đẹp abgeplattete Form : dạng đập dẹt elliptische Form : dạng elip geometrische Form : dạng hlnh học konkave Form : dạng lõm konvexe Form : dạng lồi [feste] Formten] annehmen : dự án đã được phác họa, kế hoạch đã được hình thành häss liche, scharfe o. ä. Formen annehmen : trở nên khó chịu, trở nên khó xử, phát triển theo chiều hướng xấu aus der Formen gehen : (khẩu ngữ, đùa) phát phì, béo ra nhiều in Formen von etwj(auch : ) in Formen einer Sache: (một việc gì được thể hiện) theo hình dạng, theo cách thức, theo kiểu in Form von Tabletten : dưới dạng thuốc viên.

Form /[form], die; -, -en/

hình thức thể hiện (bài văn, bài thơ ); dạng; dạng thức (Darstel lungsweise);

etw. in eine leicht verständliche Form bringen : trình bày một vấn đề gì theo dạng dễ hiểu.

Form /[form], die; -, -en/

hình thức tồn tại; hình thức biểu hiện; cách thể hiện (Erscheinungsweise, einzelne Erscheinungs form);

die Formen (Deklinationsformen) eines Substantivs : các dạng (biến cách) của một danh từ.

Form /[form], die; -, -en/

thể thức; nghi thức; thủ tục; lề thói trong giao tiếp (festgelegte Verhal tensweise);

das ist alles nur Form : tất cả chỉ là nghi thức mà thôi in aller Form : phải thực hiện đúng các qui định.

Form /[form], die; -, -en/

(o PI ) (bes Sport) tình trạng sức khỏe; phong độ (Kondition);

allmählich wieder in Form kommen : dần dần phục hồi lại phong độ zu großer Form auflaufen : đạt đến phong độ cao.

Form /[form], die; -, -en/

khuôn; mẫu; khuôn mẫu;

verlorene Form : khuôn dùng một lần, khuôn bỏ di Teig in eine Form füllen : đổ bột vào đầy khuôn (nướng bánh) Metall in eine Form gießen : rót kim loại vào khuôn (đúc).

Từ điển triết học Kant

Hình thức [Đức: Form; Anh: form]

-> > Mô thức,

Mô thức/Hình thức [Đức: Form; Anh: form]

Xem thêm: Nguyên mẫu, Đẹp, Phạm trù, Khái niệm phản tư, Hình thức [thuyết], Mô thức của trực quan [các], Ý niệm, Vật chất, Thuần túy,

Phân tích về “các mô thức của tư tưởng” được mô tả trong 1796a như là “lao động liên tục và một công việc cẩn trọng” (tr. 404, tr. 70) của triết học siêu hình học. Kant biện minh yêu sách này bằng một nghiên cứu lịch sử về vấn đề mô thức nơi Platon và Aristoteles, và ảnh hưởng của họ lên “giọng điệu mởi được cất lên gần đây trong triết học”. Kant phê phán việc Platon tìm kiếm nguồn gốc của các mô thức trong “sự hiểu biết thần thánh” hay “nền tảng sơ khởi của vạn vật” thay vì trong giác tính của chính chúng ta. Trong quan niệm của Kant, điều này dẫn đến một sự nhân đôi thế giới thành hai phương diện nguyên mẫu và bản sao, cho phép những người nhiệt tình với triết học và tôn giáo có thể yêu sách về nhận thức trực quan trực tiếp về “thế giới đúng thật” mà không cần trải qua sự vất vả của việc làm triết học. Aristoteles cũng bị lên án là đã vi phạm tương tự trong việc ông nỗ lực mở rộng các mô thức của nhận thức từ thế giới vật lý sang thế giới siêu hình học. Nhưng trên hết, đối với Kant, Platon phải là người chịu trách nhiệm về nhiệt tình triết học, mặc dù Kant không quy trách nhiệm cá nhân cho Platon (tr. 391, tr. 54). “Giọng điệu mởi được cất lên gần đây” mà Kant chỉ trích, đó là việc trực quan mô thức một cách thần bí, hoặc bác bỏ nó vì cho rằng đó “chỉ đơn thuần là giáo điều” hay “chế tạo ra mô thức” (tr. 404, tr. 70). Chống lại cả hai khuynh hướng này, Kant đề nghị một sự nghiên cứu có phê phán về mô thức xét như một đặc trưng thuần túy, tiên nghiệm của kinh nghiệm.

Trong PPNLPĐ, Kant chấp thuận trích dẫn công thức kinh viện forma dat esse rei (“mô thức mang lại bản chất của vạn vật”) rồi đưa ra một sự phản tư phê phán về công thức này. Nếu các sự vật đang được bàn đến là “các đỗi tượng của giác quan” thì các mô thức của các sự vật là “các mô thức của trực quan” đã được nhận diện trong PPLTTT là không gian và thời gian. Kant nói thêm rằng, toán học không gì khác hơn là học thuyết về các mô thức của trực quan thuần túy. Ngược lại, siêu hình học hay “triết học thuẫn túy” được đặt cơ sở trên “các mô thức của tư tưởng” mà mọi đối tượng hay “chất liệu của nhận thức” có thể được thâu gồm vào dưới chúng. Các hình thức hay mô thức này của giác tính (tức các phạm trù) là các điều kiện cho khả thể của nhận thức tổng hợp. Trong PPLTTT, Kant cũng bổ sung thêm rằng “các ý niệm của lý tính” là những mô thức của lý tính, nhưng trong PPNLPĐ Kant nhấn mạnh (không phải là không nhất quán) việc sử dụng có tính mô thức của lý tính chỉ được giới hạn vào các quy luật thực hành, trong đó không phải phưong diện chất liệu của một hành động - tức một mục đích được ham muốn - mà chỉ mô thức của nó mới có ý nghĩa luân lý. Điều này cốt yếu ở sự thích hợp của một châm ngôn để được biến thành một quy luật phổ quát. Đối với phần tóm tắt của Kant về tầm quan trọng của mô thức trong triết học lý thuyết và triết học thực hành trong PPNLPĐ, ta có thể thêm vào vai trò của nó trong triết học mỹ học của ông. Trong PPNLPĐ, chất của một phán đoán sở thích được thoát ly khỏi chất liệu của đối tượng nghệ thuật, và chỉ liên quan đến “hình thức của tính hợp mục đích” của nó mà thôi (§17).

Trong khi mô thức là khái niệm trung tâm của triết học phê phán, nó lại không thoát khỏi tính nước đôi. Điều này chủ yếu bắt nguồn từ việc Kant duy trì một sự phân biệt kiểu Platon giữa mô thức và chất liệu trong khi vẫn cố gắng vượt qua nó: có lúc, ông xem mô thức và chất liệu là không thể tách biệt nhau được, nhưng có khi lại không cho rằng chúng liên hệ với nhau trên mọi phưong diện. Vì vậy có lúc trong PPNLPĐ, Kant có thể tuyên bố rằng chất của một phán đoán sở thích cốt yếu ở tính hợp quy luật thuần túy về hình thức của nó, lúc khác lại cho rằng hình thức này chỉ có thể được phát hiện bằng cách đặt tưong phản nó với “sự hấp dẫn” hay chất liệu của phán đoán sở thích (§ 14). Quan trọng hon, trong [chưong] bàn thảo về các khái niệm phản tư trong PPLTTT, chất thể và mô thức cùng được cho là “cổ sở cho mọi sự phản tư khác”, trong đó chất liệu đóng vai trò như “cái có thể được quy định (das Bestimmbare) nói chung”, còn mô thức là “sự quy định của nó [cái quy định]” (A 266/B 322). Cả chất thể và mô thức được bện xoắn vào nhau, vì mô thức xét như sự quy định là vô nghĩa nếu không có một chất liệu được quy định. Hon nữa, sự đối lập giữa mô thức và chất liệu được trình bày một cách tưong tự trong những sự đối lập xuyên suốt các văn bản của Kant, như sự đối lập giữa hai bên: mô thức là thuần túy, chất liệu là không thuần túy; mô thức là mang tính phổ quát, chất liệu là mang tính đặc thù; mô thức là đồng nhất, chất liệu là khác biệt; và thậm chí mô thức là chủ thể, chất liệu là đối tượng.

Nếu mô thức có rất ít ý nghĩa bên ngoài sự đối lập của nó với chất liệu, thì vấn đề sẽ nảy sinh khi ta cố tách biệt các yếu tố mang tính mô thức với các yếu tố mang tính chất liệu. Những vấn đề này được bàn thảo chu đáo dưới rất nhiều lớp áo bởi Kant và những người kế thừa cũng như những nhà phê phán sau ông. Chúng có thể được quy khái quát thành hai loại vấn đề có liên quan với nhau: loại thứ nhất liên quan đến việc thâu gồm chất liệu bởi mô thức; loại thứ hai liên quan đến nguồn gốc của mô thức. Nếu mô thức không liên quan gì với chất liệu, nếu không có mối tưong quan giữa cái quy định và cái có thể được quy định, thì sẽ chẳng có hành động nhận thức hay luân lý nào cả: vì nhận thức là nhận thức về các hiện tượng có thể xác định, và những hành động luân lý là những hành động của một tồn tại hữu hạn nhất định. Khi đối diện với điều này, Kant phát triển một vài sự loại suy cực kỳ tinh tế cho sự thông dự kiểu Platon, như thuyết niệm thức và các nguyên lý trong PPLTTT và cái điển hình trong PPLTTH. Phân tích pháp về sự vui sướng trong PPNLPĐ cũng đánh dấu sự cố gắng liên kết hai mặt hình thức và chất liệu của sự vui sướng thẩm mỹ, mặc dù ở đây, thỉnh thoảng có vẻ như thể Kant từ bỏ sự đối lập kiểu Platon còn sót lại giữa mô thức và chất liệu để ủng hộ cho một khái niệm rộng hon về “tính cân đối”.

Khó khăn chính của lập luận mà Kant gặp phải trong những phần này là khó khăn trong việc giữ chất liệu ở đúng vị trí của nó, cho phép nó liên kết với mô thức bên ngoài mà không trở nên quá phụ thuộc. Vấn đề này bị làm phức tạp hon lên trong phân tích pháp của Kant khi nghiên cứu về nguồn gốc của mô thức. Kant không thừa nhận những lập luận của phái duy nghiệm cho rằng mô thức có thể được rút ra từ kinh nghiệm về chất liệu; Kant khẳng định rằng mô thức đi trước “bản thân những sự vật” (A 267/B 323) và ông khẳng định bằng cách giới hạn phạm vi của triết học phê phán vào phân tích pháp về các hiện tượng trong không gian và thời gian. Nhưng đồng thời, Kant cũng muốn tránh lập trường đối lập, tức lập trường cho rằng mô thức có nguồn gốc thuần lý; điều này đặt Kant vào một nguy Cổ xem xét mô thức trong các thuật ngữ của trường phái Leibniz hay Wolff như là một sự trực quan về sự hoàn hảo thuần lý, hoặc trong thuật ngữ của Malebranche như một món quà của Thượng đế. Kant cũng thận trọng với mọi phả hệ học tâm lý về mô thức, hoặc như một ý niệm bẩm sinh, hoặc như vấn đề của tình cảm. (Các) lập trường phức hợp nổi tiếng của chính Kant rút mô thức ra từ sự thống nhất siêu nghiệm của thông giác, như trong PPLTTT, hay từ sự giao tiếp giữa chủ thể và thế giới trong PPNLPĐ và các tác phẩm sau.

Những vấn đề xung quanh khái niệm về mô thức đã và đang gây ra rất nhiều bình luận phê phán. Với tư cách là một trong những vấn đề nền tảng của triết học, nó có thể sẽ được nhắc lại luôn mãi, và không chỉ giới hạn trong phạm vi sự phê phán của Kant. Điều không phủ nhận được là: Kant, dù vẫn nằm trong một lập trường kiểu Platon, đã tái xác định một cách căn bản các thuật ngữ của vấn đề này, xem nó như một vấn đề bắc cầu cho triết học lý thuyết, triết học thực hành và triết học mỹ học, và có xuất phát điểm không phải là lĩnh vực siêu cảm tính, mà là kinh nghiệm của con người như là chủ thể hữu hạn.

Mai Sơn dịch

Từ điển IATE Đức-Anh-Pháp (I-A Terminology for Europe)

Form /IT-TECH,ENG-ELECTRICAL/

[DE] Form

[EN] totalization counter

[FR] compteur totalisateur

Form /INDUSTRY,ENG-MECHANICAL/

[DE] Form

[EN] former; mold; mould; shape

[FR] forme; moule

Form,Forma /SCIENCE/

[DE] Form; Forma

[EN] form

[FR] forme

Form,Schablone

[DE] Form; Schablone

[EN] mould

[FR] moule

Datenformat,Form,Format /IT-TECH/

[DE] Datenformat; Form; Format

[EN] format

[FR] format

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Form /í =, -en/

1. hình thúc, hình dạng, hình dáng, hình thù, hình dung, hình trạng, dáng dấp, dáng; aus der Form kommen biến dạng; 2. pl [phép] lịch sự, xã giao; 3. (văn phạm) thể, dạng, thúc, hình thái; 4. mẫu, thể thúc, cách thức, mô hình, khuôn, khuôn mẫu; in eine Form gießen đúc, đổ khuôn; 6. (quân sự) hàng, hàng ngũ, hàng quân, đội ngũ.

Từ điển KHCN Đức Anh Việt

Form /f/XD/

[EN] form

[VI] khuôn; ván khuôn, cốp pha

Form /f/IN/

[EN] forme (Anh), printing form (Mỹ)

[VI] khuôn in

Form /f/CNSX/

[EN] chase, die

[VI] rãnh, rãnh cắt, khuôn dập, khuôn rèn, khuôn đúc

Form /f/C_DẺO, CT_MÁY/

[EN] mold (Mỹ), mould (Anh)

[VI] khuôn, dưỡng

Form /f/L_KIM/

[EN] mold (Mỹ), mould (Anh), shape

[VI] khuôn, mẫu, mô hình

Form /f/S_CHẾ/

[EN] form

[VI] mẫu (tóm tắt)

Form /f/KT_DỆT/

[EN] shape

[VI] hình dạng, khuôn mẫu

Thuật ngữ kỹ thuật ô tô Đức-Anh

Form

form

Form

mold

Form

shape