TỰ ĐIỂN TỔNG HỢP
  • Tra từ
  • Các Từ điển khác
    Từ điển Hán Việt Trích Dấn Từ điển Hán Việt Thiều Chửu
    Từ điển Chữ Nôm Trích Dấn
    Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Từ điển Hội Khai Trí Tiến Đức
    Phật Quang Đại Từ điển
  • Hướng dẫn
    Hướng dẫn
    Về Từ điển tổng hợp
  • Tài khoản
    Đăng nhập Đăng xuất Đăng ký
  • Quản lý
    Cấu hình tự điển Bảng thuật ngữ Nhập bảng thuật ngữ Xuất bảng thuật ngữ
ANY>>ANY

Việt

hình thức

hình thức

 
Thuật ngữ thương mại Anh-Việt
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Thuật ngữ Xây Dựng Anh-Việt
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình dạng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phương thức

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Hình thái

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dạng

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Biểu mẫu

 
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt

phương pháp

 
Từ điển toán học Anh-Việt

mô thức/hình thức

 
Từ điển triết học Kant

mô thức

 
Từ điển triết học Kant

chính thức

 
Thuật ngữ Xây Dựng Anh-Việt

chất liệu và nội dung

 
Từ điển triết học HEGEL

hình trạng

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

dạng thức

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

cách thể

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

cách thức.

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

mô hình

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

thể thức

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

phương thức .

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Bên ngoài

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại tại

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại biểu

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại diện

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại quan

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại hình

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại giới

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

ngoại lai

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

khách quan.

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

vẻ ngoài

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

vẻ bề ngoài

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

kiểu

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

cách diễn đạt

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lôi trình bày

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

lối thể hiện

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

hỉnh thù

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình dung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thân hình

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình dáng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

dáng ngưòi

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thể chất

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

vóc người

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

thể tạng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

nhân vật .

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trình bày

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bài trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trang trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bô' trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

bó cục

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

trang hoàng

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

phối trí

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

miêu tâ

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

mô tả

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình thù

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

hình thành

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

tạo thành

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

cáu thành

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Anh

hình thức

Form

 
Thuật ngữ thương mại Anh-Việt
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

formal

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Thuật ngữ Xây Dựng Anh-Việt

mode

 
Từ điển toán học Anh-Việt
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Formalities

 
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt

Forms

 
Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt

matter and content

 
Từ điển triết học HEGEL

Gestalt

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

modality

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

external

 
Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Đức

hình thức

form

 
Từ điển triết học Kant
Từ điển triết học HEGEL

materie und inhalt

 
Từ điển triết học HEGEL

gestaltlich

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Eidos

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Version

 
Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

Gestalt

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Gestaltung

 
Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế
Chuyên ngành chất dẻo (nnt)

250 Darstellungsformen von Steuerungen

250 Các hình thức mô tả hệ điều khiển

5.1.5 Darstellungsformen von Steuerungen

5.1.5 Các hình thức mô tả hệ điều khiển

Chuyên ngành CN Hóa (nnt)

Selektive Angriffsform

Hình thức ăn mòn có chọn lựa

Rohrwerkstoff und Dichtform

Vật liệu ống và hình thức đệm kín (gioăng)

Relativ harmlose Form der Korrosion.

Một hình thức ăn mòn tương đối vô hại.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

der äußeren Gestalt auf das Wesen schließen

xét đoán cái gì theo bề ngoài;

einer Sache (D) Gestalt geben

1, tạo dáng cho cái gi; 2, tạo dáng cho cái gỉ về mặt nào;

Gestalt gewinnen (ánnehmen)

1, có dạng; 2, hình dung, tưởng tượng;

nach Gestalt der Dinge

tùy theo hoàn cảnh, tùy tình hình; 2. thân hình, hình dáng, dáng ngưòi, thể chất, thân hình, vóc người, thể tạng;

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

eine vereinfachte Version

một cách trình bày được đơn giản hóa.

Tự điển Đức việt Nguyễn Văn Tuế

Gestalt /f =, -en/

1. hình thái, hình thức, hỉnh thù, dạng, hình dạng, hình dung; von der äußeren Gestalt auf das Wesen schließen xét đoán cái gì theo bề ngoài; einer Sache (D) Gestalt geben 1, tạo dáng cho cái gi; 2, tạo dáng cho cái gỉ về mặt nào; Gestalt gewinnen (ánnehmen) 1, có dạng; 2, hình dung, tưởng tượng; nach Gestalt der Dinge tùy theo hoàn cảnh, tùy tình hình; 2. thân hình, hình dáng, dáng ngưòi, thể chất, thân hình, vóc người, thể tạng; éine liebliche - dáng ngưòi kháu khỉnh; éine uerdâchtige - con người đáng nghi; 3. nhân vật (trong tiểu thuyết).

Gestaltung /f =, -en/

1. (sự) trình bày, bài trí, trang trí, bô' trí, bó cục, trang hoàng, phối trí, miêu tâ, mô tả; 2. hình thức, hình thái, hình dáng, hình thù; dichterische - dạng thi ca; 3. (sự) hình thành, tạo thành, cáu thành; die - der Dinge tình hỉnh; die - uon Kinderferien tổ chúc nghỉ hè cho trẻ em.

Từ điển Đức Việt - Nguyễn Thu Hương

gestaltlich /(Adj.)/

(thuộc) hình thức; hình dạng; vẻ ngoài;

Eidos /das; - (Philosophie)/

vẻ bề ngoài; hình dạng; hình thức (Gestalt, Form, Aussehen);

Version /[ver'ziom], die; -, -en/

hình thức; kiểu; dạng; cách diễn đạt; lôi trình bày; lối thể hiện;

một cách trình bày được đơn giản hóa. : eine vereinfachte Version

Từ điển Công Giáo Anh-Việt

Gestalt

Hình thái, hình trạng, hình thức

modality

Hình thức, hình thái, phương thức, dạng thức

mode

Hình thức, phương thức, dạng thức, cách thể, cách thức.

form

Hình thức, hình dạng, hình thái, mô hình, thể thức, phương thức [chỉ hình dạng, mô thức mà một sự vật phải có để thành; hình thức, mô thức đó không phải chỉ là ngoại tại mà cả nội tại nữa, không phải chỉ hữu hình mà cả vô hình nữa].

external

Bên ngoài, ngoại tại, ngoại biểu, ngoại diện, ngoại quan, ngoại hình, hình thức, ngoại giới, ngoại lai, khách quan.

Từ điển triết học HEGEL

Hình thức, Chất liệu và Nội dung [Đức: Form, Materie und Inhalt; Anh: form, matter and content]

Tiếng Đức có hai từ để chỉ “hình thức”:

1. Chữ Gestalt [hình thái/Anh: shape] là một từ Đức bản địa, có nguồn gốc từ chữ stellen (“đặt để, gầy dựng, sắp xếp, hình thành”, V.V.), nhưng sinh ra một động từ của riêng nó, gestalten (“hình thành, định hình”), và do đó có danh từ Gestaltung chỉ tiến trình hay sản phẩm của việc tạo hình ấy. Một Gestalt không phải là một hình thái hay hình thức trừu tượng có thể được chia sẻ chung giữa một số sự vật, nhưng là hình thức hay hình thái của một cái cá biệt. Do đó nó cũng có thể quy chiếu đến bản thân cái cá biệt được hình thành hay định hình ấy Khác với chữ Form, chữ Gestalt thường không hàm ý một sự tương phản với “chất liệu” hay “nội dung”. Các đối tượng vốn có một Gestalt (chẳng hạn: cây cối, các nhạc phẩm, các nền văn hóa) được suy tưởng là các thực thể HỮU cơ, chỉ có thể được nhận thức như là cái toàn bộ, chứ không phải bằng sự xem xét từng bộ phận của chúng.

2. Chữ Form phái sinh từ chữ La-tinh thường biểu thị một hình thức TRỪU TƯỢNG được chia sẻ chung giữa một số cái cá biệt: khác với Gestalt, nó cũng có thể quy đến hình thức của một bài xô-nê (sonnet) nói chung, và, giống như Gestalt, đến hình thức của một bài xô-nê đặc thù. Do đó, nó thường tương phản với “chất liệu” hay “nội dung”. Trong mỹ học, Form của một tác phẩm nghệ thuật là VẺ NGOÀI (Schein) có thể tri giác được của nó, tương phản với nội dung bên trong của nó. (Form, nhưng không phải Gestalt, của tác phẩm ấy có thể không tương thích với nội dung của nó). Ngược lại, trong truyền thống Aristoteles, Form [hình thức/mô thức] (tiếng Hy Lạp: eidos) của một vật, khác với chất liệu thường được xem là BẢN CHÂT nội tại, sẽ quy định hình thức bên ngoài. Quan niệm về một hình thức nội tại, bản chất xuất hiện ở Herder, Goethe, và Hegel (xem KHÁI NIỆM). Tính từformal hay formell áp dụng vào bất kỳ điều gì liên quan đến hình thức và thoát ly khỏi nội dung, và Formalismus [chủ nghĩa hình thức] là một sự tập trung quá mức vào hình thức với sự xem nhẹ nội dung.

Trong Lô-gíc học của Hegel, Form tương phản với “bản chất”, nhưng tương phản chủ yếu là với “chất liệu” và “nội dung”:

1. Materie [vật chất], giống như từ “matter” trong tiếng Anh, có hai sự sử dụng chính trong triết học:

(a) Nó biểu thị chất liệu vật chất, tương phản không phải chủ yếu với “hình thức”, mà với TINH THẦN (tinh thần cá nhân hay tinh thần nói chung) và với cái Ý THỂ hay trừu tượng. Materie theo nghĩa này là tương đương với Stoff (“vật liệu, chất liệu”). Những chữ này cũng xuất hiện ở dạng số nhiều, đặc biệt khi Hegel thảo luận về lý thuyết rằng các thuộc tính của một VẬT là các chất liệu hay vật liệu (chẳng hạn, sức nóng là “chất liệu nhiệt”, nhưng các vật liệu “xốp” vốn có thể xuyên thấm vào nhau, đến mức vật ấy có thể là, chẳng hạn, vừa nóng vừa ngọt. Nhưng, ở dạng số ít, Materie có thể biểu thị chất liệu trung tính, đồng tính của cái mà, theo vật lý học Newton, mọi thứ đều chứa đựng. Hegel (giống như Berkeley) xem Materie thuộc loại này là một sự trừu tượng trống rỗng.

(b) Trong truyền thống Aristoteles, vật chất hay chất liệu của một thực thể tưong phản với hình thức của nó. Nhưng “vật chất” theo nghĩa này cũng mang tính nước đôi: nó quy đến (i) vật chất vô hình thức mà từ đó sự vật được tạo hình xuất hiện ra, chẳng hạn khối đá cẩm thạch mà từ đó pho tượng được tạo ra; và (ii) vật chất được tạo hình là đồng thời với sự vật được tạo hình ấy, chẳng hạn đá cẩm thạch được tạo hình chính là pho tượng đá. Có bốn sự phức tạp lớn hon: thứ nhất, vật chất theo nghĩa (b) thường cũng là vật chất hay chất liệu theo nghĩa (a), nhưng không nhất thiết phải thế: chất liệu của, chẳng hạn, một bức tranh có thể hoặc là các vật liệu (chẳng hạn Sổn, vải, v.v., ) được sử dụng để tạo ra nó hoặc là chủ đề hay thông điệp của bức tranh. (Hegel nói chung thường sử dụng Inhalt hon, tức là “nội dung”, để chỉ “chất liệu” theo nghĩa sau). Thứ hai, trong trường hợp của pho tượng, hình thức và chất liệu là độc lập tưong đối hay “dửng dưng” (gleichgültig) với nhau: đá cẩm thạch nói chung, hay một tảng đá cẩm thạch đã cho, có thể tạo thành những sự vật khác hon là những pho tượng, và một pho tượng của cùng hình thức có thể được tạo thành từ một vật liệu khác, chẳng hạn bằng đồng. Nhưng trong trường hợp các thực thể là sự sống hữu Cổ, chất liệu và hình thức là không dửng dưng với nhau: thịt, không giống như đá cẩm thạch, không thể có trước các thực thể được tạo ra từ nó, nó phải tạo nên động vật đặc thù chứa đựng nó; ngược lại, một động vật chỉ có thể được cấu thành từ thịt. Thứ ba, đá cẩm thạch, từ đó một pho tượng được tạo ra và rồi từ đó nó chứa đựng, hay thịt mà một động vật bao chứa, là tưong đối vô hình thức đối với pho tượng hay động vật ấy. Nhưng đến lượt mình, chúng có một hình thức khiến chúng khác biệt với, chẳng hạn, đá lửa hay máu, và chứa đựng vật chất Sổ cấp hon, mà đến lượt mình, lại có một hình thức và chứa đựng chất liệu còn đon giản hon nữa. Theo đó, có hai lựa chọn:

(i) bất kỳ vật chất nào cũng có thể phân giải thành hình thức và chất liệu, một cách vô hạn, (ii) sự quy thoái ấy kết thúc trong “vật chất Sổ nguyên”, vật chất không có hình thức, vật chất tối hậu, đơn giản mà mọi vật đều chứa đựng. Vật chất nguyên sơ này không giống vật chất cơ bản của nhà vật lý. (Ta cũng có thể lập luận rằng (iii) có vài loại vật chất tối hậu không thể được phân tích hơn nữa thành hình thức và vật chất: các nguyên tố). Sau cùng, các nhà theo phái Aristoteles tin rằng chuỗi các thực thể được cấu thành bởi những sự áp đặt thành công của các hình thức cao hơn, và kết thúc trong hình thức thuần túy, hình thức không có chất liệu, tức là Thượng Đế.

2. Có hai chữ để chỉ “nội dung”: Inhalt và Gehalt. Gehalt khác với Inhalt ở chỗ, thứ nhất, nó hàm ý rằng nội dung được thống nhất hơn Inhalt (do đó chúng ta có thể sử dụng “nội dung” (tiếng Anh: “content”) cho chữ Gehalt, “các nội dung” (tiếng Anh: “contents”) cho Inhalt), và, thứ hai, nó hàm ý mạnh mẽ hơn nhiều về giá trị của nội dung (do đó Gehalt gợi ý đến “ý nghĩa, thực chất”/Anh: “import”). Vì cả hai lý do trên, Gehalt của một điều gì đó gắn bó chặt chẽ hơn với Form của nó, và Hegel, dù ông sử dụng cả hai chữ, thường đối lập Form với Inhalt. Inhalt khác với Materie theo hai cách. Thứ nhất, Inhalt tương quan về lô-gíc với Form, và Inhalt không thể tồn tại trước vật được tạo hình. Thứ hai, Inhalt không dẫn đến gợi ý về tính chất vật lý. Vì cả hai lý do trên, nội dung của một tác phẩm nghệ thuật là chủ đề của nó, chứ không phải chất liệu tạo nên nó.

Hegel sử dụng tất cả các chữ này trong trọn vẹn dãy nghĩa của chúng. Ông sử dụng Gestalt trong HTHTT cho các hình thức hay hình thái của Ý THỨC, cho các hình thức hay hình thái của các đối tượng tự nhiên chẳng hạn như các tinh thể, và nhất là cho các hình thái hay hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Form và Inhalt hay Materie trở đi trở lại xuyên suốt tác phẩm của ông. Đặc biệt ông nhấn mạnh các điểm sau:

(1) Form và Inhalt/Materie có thể biểu thị đủ loại các tương phản khác nhau: chẳng hạn, chất liệu tạo thành một cuốn sách, cụ thể là giấy và da, là Form bên ngoài của nó, tương phản với hình thức văn chương bên trong của nó, và tương phản với Inhalt của nó (theo hai nghĩa tương ứng). Dù hình thức và nội dung có “dửng dưng” với nhau như thế nào, và cái nào trong cặp ấy được xem là bản chất và “tích cực”, sẽ phụ thuộc vào việc ta nghĩ đến sự tương phản nào.

(2) Ngay cả trong trường hợp của một sự tương phản duy nhất, một trong hai thuật ngữ đang tương phản có thể được xem là Form, và cái kia được xem là Inhalt, phụ thuộc vào quan điểm của chúng ta: chẳng hạn, các TƯ TƯỞNG thuần túy liên quan, hay cấu trúc lô-gíc của một phần diễn ngôn (tương phản với nội dung thường nghiệm của nó), có thể được xem hoặc là Form của nó hoặc là Inhalt của nó (“điểm trọng yếu” của nó).

(3) Trong sinh thể hữu cơ và các tác phẩm nghệ thuật lý tưởng, Form và Inhalt gắn bó một cách không thể tách rời.

(4) Không có vật chất hay nội dung hoàn toàn vô hình thức, vì điều gì là vô hình thức liên quan đến một hình thức được “định hình” bởi hình thức khác: tảng đá cẩm thạch vô hình thức có hình thức của đá cẩm thạch.

(5) Ngược lại, không có hình thức nào là hoàn toàn vô nội dung: chẳng hạn, các hình thức lô-gíc của hai câu có thể khác nhau chỉ dựa vào một sự khác biệt trong nội dung tương ứng của chúng. Quan trọng nhất, điều gì ở tại một cấp độ là Form hay formell, một tư tưởng hay một hình thức lô-gíc, có thể là nội dung của một tư tưởng cao hơn (hay siêu-): chẳng hạn, tư tưởng về TỒN TẠI là bộ phận của hình thức của câu “Hoa hồng là đỏ”, nhưng lại là phần nội dung của câu: “Tồn tại trở thành hư vô”. Do đó tư tưởng thuần túy hay “Ý NIỆM lô-gíc”, dù theo một nghĩa hình thức thuần túy, không chỉ duy nhất mang tính hình thức, trái lại, có bản thân nó như nội dung của chính nó.

Theo Hegel, hình thức thuần túy, vô nội dung và chất liệu thuần túy, vô hình thức là một thứ như nhau: đều là một sự trừu tượng hoàn toàn vô quy định.

Nguyễn Văn Sướng dịch

Thuật ngữ Xây Dựng Anh-Việt

hình thức,chính thức

Formal (adj)

hình thức, chính thức

Từ điển triết học Kant

Hình thức [Đức: Form; Anh: form]

-> > Mô thức,

Mô thức/Hình thức [Đức: Form; Anh: form]

Xem thêm: Nguyên mẫu, Đẹp, Phạm trù, Khái niệm phản tư, Hình thức [thuyết], Mô thức của trực quan [các], Ý niệm, Vật chất, Thuần túy,

Phân tích về “các mô thức của tư tưởng” được mô tả trong 1796a như là “lao động liên tục và một công việc cẩn trọng” (tr. 404, tr. 70) của triết học siêu hình học. Kant biện minh yêu sách này bằng một nghiên cứu lịch sử về vấn đề mô thức nơi Platon và Aristoteles, và ảnh hưởng của họ lên “giọng điệu mởi được cất lên gần đây trong triết học”. Kant phê phán việc Platon tìm kiếm nguồn gốc của các mô thức trong “sự hiểu biết thần thánh” hay “nền tảng sơ khởi của vạn vật” thay vì trong giác tính của chính chúng ta. Trong quan niệm của Kant, điều này dẫn đến một sự nhân đôi thế giới thành hai phương diện nguyên mẫu và bản sao, cho phép những người nhiệt tình với triết học và tôn giáo có thể yêu sách về nhận thức trực quan trực tiếp về “thế giới đúng thật” mà không cần trải qua sự vất vả của việc làm triết học. Aristoteles cũng bị lên án là đã vi phạm tương tự trong việc ông nỗ lực mở rộng các mô thức của nhận thức từ thế giới vật lý sang thế giới siêu hình học. Nhưng trên hết, đối với Kant, Platon phải là người chịu trách nhiệm về nhiệt tình triết học, mặc dù Kant không quy trách nhiệm cá nhân cho Platon (tr. 391, tr. 54). “Giọng điệu mởi được cất lên gần đây” mà Kant chỉ trích, đó là việc trực quan mô thức một cách thần bí, hoặc bác bỏ nó vì cho rằng đó “chỉ đơn thuần là giáo điều” hay “chế tạo ra mô thức” (tr. 404, tr. 70). Chống lại cả hai khuynh hướng này, Kant đề nghị một sự nghiên cứu có phê phán về mô thức xét như một đặc trưng thuần túy, tiên nghiệm của kinh nghiệm.

Trong PPNLPĐ, Kant chấp thuận trích dẫn công thức kinh viện forma dat esse rei (“mô thức mang lại bản chất của vạn vật”) rồi đưa ra một sự phản tư phê phán về công thức này. Nếu các sự vật đang được bàn đến là “các đỗi tượng của giác quan” thì các mô thức của các sự vật là “các mô thức của trực quan” đã được nhận diện trong PPLTTT là không gian và thời gian. Kant nói thêm rằng, toán học không gì khác hơn là học thuyết về các mô thức của trực quan thuần túy. Ngược lại, siêu hình học hay “triết học thuẫn túy” được đặt cơ sở trên “các mô thức của tư tưởng” mà mọi đối tượng hay “chất liệu của nhận thức” có thể được thâu gồm vào dưới chúng. Các hình thức hay mô thức này của giác tính (tức các phạm trù) là các điều kiện cho khả thể của nhận thức tổng hợp. Trong PPLTTT, Kant cũng bổ sung thêm rằng “các ý niệm của lý tính” là những mô thức của lý tính, nhưng trong PPNLPĐ Kant nhấn mạnh (không phải là không nhất quán) việc sử dụng có tính mô thức của lý tính chỉ được giới hạn vào các quy luật thực hành, trong đó không phải phưong diện chất liệu của một hành động - tức một mục đích được ham muốn - mà chỉ mô thức của nó mới có ý nghĩa luân lý. Điều này cốt yếu ở sự thích hợp của một châm ngôn để được biến thành một quy luật phổ quát. Đối với phần tóm tắt của Kant về tầm quan trọng của mô thức trong triết học lý thuyết và triết học thực hành trong PPNLPĐ, ta có thể thêm vào vai trò của nó trong triết học mỹ học của ông. Trong PPNLPĐ, chất của một phán đoán sở thích được thoát ly khỏi chất liệu của đối tượng nghệ thuật, và chỉ liên quan đến “hình thức của tính hợp mục đích” của nó mà thôi (§17).

Trong khi mô thức là khái niệm trung tâm của triết học phê phán, nó lại không thoát khỏi tính nước đôi. Điều này chủ yếu bắt nguồn từ việc Kant duy trì một sự phân biệt kiểu Platon giữa mô thức và chất liệu trong khi vẫn cố gắng vượt qua nó: có lúc, ông xem mô thức và chất liệu là không thể tách biệt nhau được, nhưng có khi lại không cho rằng chúng liên hệ với nhau trên mọi phưong diện. Vì vậy có lúc trong PPNLPĐ, Kant có thể tuyên bố rằng chất của một phán đoán sở thích cốt yếu ở tính hợp quy luật thuần túy về hình thức của nó, lúc khác lại cho rằng hình thức này chỉ có thể được phát hiện bằng cách đặt tưong phản nó với “sự hấp dẫn” hay chất liệu của phán đoán sở thích (§ 14). Quan trọng hon, trong [chưong] bàn thảo về các khái niệm phản tư trong PPLTTT, chất thể và mô thức cùng được cho là “cổ sở cho mọi sự phản tư khác”, trong đó chất liệu đóng vai trò như “cái có thể được quy định (das Bestimmbare) nói chung”, còn mô thức là “sự quy định của nó [cái quy định]” (A 266/B 322). Cả chất thể và mô thức được bện xoắn vào nhau, vì mô thức xét như sự quy định là vô nghĩa nếu không có một chất liệu được quy định. Hon nữa, sự đối lập giữa mô thức và chất liệu được trình bày một cách tưong tự trong những sự đối lập xuyên suốt các văn bản của Kant, như sự đối lập giữa hai bên: mô thức là thuần túy, chất liệu là không thuần túy; mô thức là mang tính phổ quát, chất liệu là mang tính đặc thù; mô thức là đồng nhất, chất liệu là khác biệt; và thậm chí mô thức là chủ thể, chất liệu là đối tượng.

Nếu mô thức có rất ít ý nghĩa bên ngoài sự đối lập của nó với chất liệu, thì vấn đề sẽ nảy sinh khi ta cố tách biệt các yếu tố mang tính mô thức với các yếu tố mang tính chất liệu. Những vấn đề này được bàn thảo chu đáo dưới rất nhiều lớp áo bởi Kant và những người kế thừa cũng như những nhà phê phán sau ông. Chúng có thể được quy khái quát thành hai loại vấn đề có liên quan với nhau: loại thứ nhất liên quan đến việc thâu gồm chất liệu bởi mô thức; loại thứ hai liên quan đến nguồn gốc của mô thức. Nếu mô thức không liên quan gì với chất liệu, nếu không có mối tưong quan giữa cái quy định và cái có thể được quy định, thì sẽ chẳng có hành động nhận thức hay luân lý nào cả: vì nhận thức là nhận thức về các hiện tượng có thể xác định, và những hành động luân lý là những hành động của một tồn tại hữu hạn nhất định. Khi đối diện với điều này, Kant phát triển một vài sự loại suy cực kỳ tinh tế cho sự thông dự kiểu Platon, như thuyết niệm thức và các nguyên lý trong PPLTTT và cái điển hình trong PPLTTH. Phân tích pháp về sự vui sướng trong PPNLPĐ cũng đánh dấu sự cố gắng liên kết hai mặt hình thức và chất liệu của sự vui sướng thẩm mỹ, mặc dù ở đây, thỉnh thoảng có vẻ như thể Kant từ bỏ sự đối lập kiểu Platon còn sót lại giữa mô thức và chất liệu để ủng hộ cho một khái niệm rộng hon về “tính cân đối”.

Khó khăn chính của lập luận mà Kant gặp phải trong những phần này là khó khăn trong việc giữ chất liệu ở đúng vị trí của nó, cho phép nó liên kết với mô thức bên ngoài mà không trở nên quá phụ thuộc. Vấn đề này bị làm phức tạp hon lên trong phân tích pháp của Kant khi nghiên cứu về nguồn gốc của mô thức. Kant không thừa nhận những lập luận của phái duy nghiệm cho rằng mô thức có thể được rút ra từ kinh nghiệm về chất liệu; Kant khẳng định rằng mô thức đi trước “bản thân những sự vật” (A 267/B 323) và ông khẳng định bằng cách giới hạn phạm vi của triết học phê phán vào phân tích pháp về các hiện tượng trong không gian và thời gian. Nhưng đồng thời, Kant cũng muốn tránh lập trường đối lập, tức lập trường cho rằng mô thức có nguồn gốc thuần lý; điều này đặt Kant vào một nguy Cổ xem xét mô thức trong các thuật ngữ của trường phái Leibniz hay Wolff như là một sự trực quan về sự hoàn hảo thuần lý, hoặc trong thuật ngữ của Malebranche như một món quà của Thượng đế. Kant cũng thận trọng với mọi phả hệ học tâm lý về mô thức, hoặc như một ý niệm bẩm sinh, hoặc như vấn đề của tình cảm. (Các) lập trường phức hợp nổi tiếng của chính Kant rút mô thức ra từ sự thống nhất siêu nghiệm của thông giác, như trong PPLTTT, hay từ sự giao tiếp giữa chủ thể và thế giới trong PPNLPĐ và các tác phẩm sau.

Những vấn đề xung quanh khái niệm về mô thức đã và đang gây ra rất nhiều bình luận phê phán. Với tư cách là một trong những vấn đề nền tảng của triết học, nó có thể sẽ được nhắc lại luôn mãi, và không chỉ giới hạn trong phạm vi sự phê phán của Kant. Điều không phủ nhận được là: Kant, dù vẫn nằm trong một lập trường kiểu Platon, đã tái xác định một cách căn bản các thuật ngữ của vấn đề này, xem nó như một vấn đề bắc cầu cho triết học lý thuyết, triết học thực hành và triết học mỹ học, và có xuất phát điểm không phải là lĩnh vực siêu cảm tính, mà là kinh nghiệm của con người như là chủ thể hữu hạn.

Mai Sơn dịch

Từ điển toán học Anh-Việt

formal

hình thức

mode

phương thức, phương pháp; hình thức

Từ vựng đầu tư quốc tế Anh-Việt

Formalities

Hình thức

Forms

Biểu mẫu, hình thức

Thuật ngữ thương mại Anh-Việt

Form

(n) hình thức